27 thg 1, 2013

Gương trung hiếu của Phủ cậu Trần Xuân Hòa

Theo tài liệu lịch sử địa phương, hơn nửa thế kỷ trước, phế tích Tân Thành - Mỹ Quý (Tiền Giang), nơi quan quân nhà Nguyễn lập đồn chống Pháp, vẫn còn sót lại nền vựa kho lúa, nền vựa kho tiền, ao và hào thành, lũy tre bao bọc thành vẫn chưa bị phá hết.

Tháng 4.1861, sau khi chiếm thành Định Tường, quân viễn chinh Pháp chia lực lượng đóng đồn ở Kỳ Hôn, Rạch Gầm và Ba Rài. Triều đình Huế cử Biện lý bộ binh Đỗ Thúc Tịnh làm Tuần phủ Định Tường, Nguyễn Túc Trưng làm Khâm phái quân vụ, bổ sung thêm các quan Trương Minh Lượng, Nguyễn Nhã, Võ Duy Dương... Họ tập hợp nghĩa quân tại Tân Thành - Mỹ Quý (nay thuộc xã Nhị Quý, H.Cai Lậy, Tiền Giang), tích trữ lương thực khí giới, huấn luyện quân sĩ. Nhưng Đỗ Thúc Tịnh hy sinh khi trên đường nhận nhiệm vụ. Bấy giờ các nghĩa sĩ cử Cử nhân Trần Xuân Hòa làm Tri phủ thay thế, Thiên hộ Võ Duy Dương làm Chánh quản đạo, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân làm Phó quản đạo.

Đánh giặc, đem theo mẹ

Trần Xuân Hòa người gốc Quảng Trị, con quan Bố chánh Trần Tuyên, vào ngụ ở thôn Mỹ Thới, huyện Vĩnh Bình (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long). Xuất thân từ gia đình có truyền thống hiếu học, mẹ ông nuôi dạy hai con đều đỗ đạt: Năm Tân Sửu 1841, Trần Xuân Hòa thi đỗ Cử nhân. Năm Quý Mão 1843, người em là Trần Xuân Quang cũng thi đỗ Cử nhân, được bổ nhiệm làm quan Tri huyện. 


Đình Hữu Đạo, nơi lưu dấu huyền thoại về vị Lãnh binh Trần Từ - Ảnh: H.P 


Nhà tình báo triều Nguyễn

Trước năm 1975, Sài Gòn có đường Lê Văn Thạnh (nay đổi lại là Sư Thiện Chiếu), sau này ở Q.9, TP.HCM cũng có đường Nguyễn Văn Thạnh. 

Riêng tại TP.Mỹ Tho (Tiền Giang) hiện vẫn còn con đường mang tên Lê Văn Thạnh, nhưng cả Sài Gòn và Mỹ Tho đều ghi sai tên một nhân vật nhiều nỗi truân chuyên trong lịch sử buổi giao thời: Cử nhân Đặng Văn Thạnh.

Hoạt động bí mật

Theo bia mộ (tại xã Long Trung, H.Cai Lậy, Tiền Giang), Đặng Văn Thạnh tự là Long Phủ, sinh năm Canh Thìn (1830) tại thôn Trà Tân, H.Kiến Đăng. Phả hệ của gia đình ghi cha ông là Đặng Kiến Hưng, người gốc Quảng Ngãi, theo cha vào đây lập nghiệp từ cuối thế kỷ 18, là một trong những họ tiền hiền có công khai khẩn lập làng Trà Tân xưa.

Thời niên thiếu, Thạnh là học trò giỏi của thầy Đồ Giáo ở Giồng Vân (thôn Phú Long cùng huyện). Năm 26 tuổi, Đặng Văn Thạnh đến trường thi Gia Định ứng thí, đậu cử nhân khoa Quý Mão (1855). Sau đó ông ra kinh đô Huế thi hội, nhưng “học tài thi phận” ông bèn nộp đơn xin hậu bổ và được tuyển chọn làm chức Huấn đạo Kiến Hòa (Định Tường) trông nom việc giáo dục. Mấy năm sau, ông chuyển qua việc hành chính tại H.Phong Thạnh, tỉnh An Giang (nay là tỉnh Bạc Liêu). Đầu tiên ông giữ chức Kinh lịch, thăng Thông phán rồi thăng Tri huyện Phong Thạnh.

26 thg 1, 2013

Thăm chùa Phù Dung nhớ Xuân Tự - Thanh Nga…


Về Hà Tiên ghé thăm lăng tẩm họ Mạc, thấy mộ phần Mạc Thiên Tích, ghé chùa Phù Dung lại nhớ đến mối tình đẹp của ông và nàng Xuân Tự, hình ảnh Thanh Nga- Xuân Tự đẹp dịu dàng chợt hiện ra.


Chùa Phù Dung hiện tọa lạc tại chân núi Bình San, phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Địa điểm hành hương & du lịch này hấp dẫn du khách bởi vẻ đẹp cổ kính, hài hòa với thiên nhiên mà còn bởi những câu chuyện bí ẩn về ngôi mộ của người trụ trì đầu tiên..

Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà: Thiên tình sử nước Nam

Trong văn học nước Nam, có những chuyện tình có gốc tích Trung Quốc nhưng vì đã quá thân thuộc nên dân ta có cảm giác là của nước mình, như Kim trọng – Thúy Kiều, Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga. Nhưng cũng có trường hợp thiên tình sử rất đẹp của nước Nam, nhưng lại bị tưởng là của Trung Quốc. Người mộ điệu cải lương nào mà không biết bài ca cổ “Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà” của soạn giả Viễn Châu.

Cách đây hơn 40 năm, khi bắt đầu biết đọc chữ, tôi đã dùng mấy đồng tiền ăn quà để mua tờ giấy in bài ca cổ này bày bán trên nền chợ trước trường học. Tôi đã thuộc lòng và thỉnh thoảng lại hát bài ca nói về chuyện tình lãng mạn và bi tráng đẹp như cổ tích của Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà. Thế nhưng, tôi cũng như nhiều người mộ điệu cải lương, cứ lầm tưởng đây là tích truyện Tàu nào đó thuộc đời Tống, đời Đường, giống như  Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Lữ Bố - Điêu Thuyền, Phạm Lãi – Tây Thi…Cho tới một lần, tôi về thị xã Gò Công (tỉnh Tiền Giang), ghé thăm miếu thờ Võ Tánh, người đã phò chúa Nguyễn Ánh gầy dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn, và thú vị biết rằng câu chuyện Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà là của dân mình, rất gần gũi với đất Nam bộ quê tôi.
 

 Về Gò Công nghe chuyện Võ Đông Sơ

Từ thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang) đi về phía biển gần 40 cây số là tới thị xã Gò Công, vùng đất đã từng cống hiến cho triều Nguyễn 2 bà hoàng hậu là bà Từ Dũ và Nam Phương Hoàng Hậu. Tiếp tục đi về hướng biển thêm khoảng 5 cây số là đến ấp Gò Tre – xã Long Thuận – thị xã Gò Công. Đây là vùng đất nổi tiếng với trái sơ ri. Bên con đường nhựa nhiều xe cộ qua lại, cạnh gốc cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, giữa khu vườn cây dại mọc um tùm là ngôi cổ miếu nhỏ dột nát, rêu phong, trên tấm biển ghi: Di tích Văn hóa Lịch sử cấp tỉnh – Miếu thờ Hoài Quốc Công Võ Tánh, thân sinh của chàng trai Võ Đông Sơ trong câu chuyện tình nói trên.



Xe lửa qua phà

Xe lửa làm sao mà qua phà được?


Tại sao xe lửa lại phải qua phà?

Chuyện tưởng như bịa này hóa ra lại có thật 100%, mà bức ảnh sau chính là minh họa rõ nét nhất.

(Ảnh được trích từ website www.daumaytoaxe.com

Tuyến đường sắt đầu tiên của Việt Nam là tuyến Sài Gòn - Mỹ Tho. Chuyến tàu đầu tiên của tuyến đường sắt này là sáng 20-7-1885. Tàu xuất phát từ ga Sài Gòn, vượt sông Vàm Cỏ Ðông bằng phà tại Bến Lức, đến ga cuối cùng tại trung tâm thành phố Mỹ Tho.

Chuyện công tử Bạc Liêu và “đại yến gan rồng”

Công tử Bạc Liêu là thành ngữ xuất phát từ cuộc đời ăn chơi trở thành “huyền thoại” của những cậu ấm từ vùng đất từng được mệnh danh là giàu nhất Nam Bộ.


Nét phong độ vẫn còn đó ở người đàn ông 72 tuổi được người đời phong danh “Công tử Khánh”. Ảnh: Nhật Hồ

“Đệ nhất ăn chơi”

Nhà báo, nhà văn Phan Trung Nghĩa, người được giới cầm bút phong tước hiệu “Công tử Bạc Liêu” (CTBL) không chỉ vì anh là tác giả quyển sách “Công tử Bạc Liêu - sự thật và giai thoại” mà còn bởi phong cách chơi đến “mát trời ông địa”, đã có lần thú nhận với tôi rằng: “So với “kỳ tích” của tiền bối, tôi chưa được đứng gần hàng rào của cái thành trì ăn chơi đó”.


Thực hư ‘ngôi vị cao nhất’ của núi Tổ Ba Vì

Mặc dù chỉ cao 1.296m (thấp hơn núi Tam Đảo - 1.581m) nhưng từ lâu, núi Ba Vì đã được nhân dân tôn vinh thành ngọn núi cao nhất, thiêng liêng nhất với câu ca: “Nhất cao là núi Ba Vì, Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”.


Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, núi Ba Vì được đánh giá cao nhất trong tâm thức dân gian chứ không phải độ cao thấp đơn thuần về mặt địa lý. Trong sách Dư địa chí, Nguyễn Trãi viết : “Núi ấy là núi Tổ của nước ta đó”.

Núi Ba Vì được coi là ngọn núi Tổ của người Việt. Ảnh: thanhtanvien.com

Nếu lấy núi Nghĩa Lĩnh (cố đô của nước Văn Lang thời tiền sử) làm tâm điểm thì núi Ba Vì và núi Tam Đảo là hai điểm đối xứng tạo thành “Thế tay ngại” trong luật phong thủy do triều đại vua Hùng tạo lập.


Đại thần Phạm Đăng Hưng và Lăng Hoàng Gia ở Gò Công

Phạm Đăng Hưng (1765-1825), tự Hiệt Củ, là danh thần của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Ông là người ở Giồng Sơn Quy (xưa thuộc huyện Tân Hòa, phủ Tân An, tỉnh Gia Định; nay thuộc ấp Lăng Hoàng Gia, xã Long Hưng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Cha là ông Phạm Đăng Long và mẹ là bà Phạm Thị Tánh.

Năm Bính Thìn (1796), tại Gia Định, Nguyễn Đăng Hưng thi đỗ tam trường, chuẩn bị thi tứ trường thì bị bệnh nên phải trở về quê [1]. Nhưng vì ông nổi tiếng là người có văn tài và hiền đức nên được bổ làm "Lễ sinh nội phủ” thời chúa Nguyễn Phúc Ánh.
Sau ông được thăng làm Tham luận ở Vệ Phấn Võ, đem quân ra đánh nhau với quân Tây Sơn ở Phú Yên. Năm Kỷ Mùi (1799), Phạm Đăng Hưng làm Tham tri bộ Lại, nhưng thường theo quân đội làm Tham mưu.

Đến khi chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long (1802), ông lần lượt trải chức: Tham tri bộ Lại kiêm Chưởng trưởng đà sự (trông coi đê điều, 1805), Thanh tra Trường thi Hương ở Kinh Bắc (1807), Thượng thư bộ Lễ (1813) kiêm quản Khâm thiên giám (1815).

Năm 1816, ông xin vua lập Xã thương (kho chứa lúa ở các xã) để chẩn cấp cho dân nghèo khi mất mùa, nhưng không được nghe.

4 đời Công tử Bạc Liêu và một kết cục bi đát

Vào năm 1895, tại Bạc Liêu có một đám cưới giữa một bên là thầy ký quèn mang họ Trần Trinh và một bên là con gái của ông bá hộ trong vùng. Nhờ đám cưới “một bên có tiền, một bên có tài” ấy mà sau này đất Bạc Liêu có ông hội đồng Trạch giàu có nhất “Nam kỳ lục tỉnh”. Để rồi sau đó nữa, đất Bạc Liêu có thêm một người được xếp vào loại “ăn chơi phóng túng nhất mọi thời đại” ở phương Nam, đó chính là Công tử Bạc Liêu.

Chuyện tình thầy ký Trạch

Một ngày cuối năm 1895, tại xã Châu Hưng - huyện Vĩnh Lợi – tỉnh Bạc Liêu, diễn ra lễ cưới của cô con gái thứ tư của ông bá hộ Phan Văn Bì, một người giàu có nhất nhì tỉnh Bạc Liêu. Tuy là nhà bá hộ, nhưng đám cưới tổ chức không lớn lắm, vì là đám gả con gái, chú rể lại là một thầy ký quèn. Sinh ra trong gia đình nghèo từ miệt Biên Hòa – Đồng Nai trôi dạt về Bạc Liêu khai khẩn đất hoang, khi mới 12 – 13 tuổi đầu Trần Trinh Trạch (SN 1873) phải đi làm mướn cho một gia đình địa chủ đã nhập quốc tịch Pháp.


Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa

Về huyện Tân Trụ (Long An) mà chưa đến thăm di tích lịch sử Vàm Nhựt Tảo - nơi ghi dấu chiến công hiển hách của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực thì quả là một thiếu sót… 

Không có gì lý thú, xúc động cho bằng khi được tận mắt chứng kiến những mảnh gỗ, mảnh sắt còn sót lại của chiến hạm L’Espérance bị Nguyễn Trung Trực đánh chìm cách đây 151 năm - lần đầu tiên và duy nhất trong lịch sử chống Pháp của phong trào Cần Vương, quân ta tấn công và đánh chìm một chiến hạm của Pháp.

Tại đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Vàm Nhựt Tảo (Long An) có nhiều bức tranh vẽ Trương Định, Nguyễn Trung Trực rất đẹp. Có điều, tranh vẽ chân dung Nguyễn Trung Trực “hơi bị… già” so với tuổi thực của ông. Bức tranh vẽ cảnh Nguyễn Trung Trực hiên ngang giữa pháp trường: chân đi trên chiếu hoa, đầu ngẩng nhìn trời (không thấy ghi tên họa sĩ). Chi tiết “chiếu hoa” ngờ rằng như tưởng tượng - chẳng qua vì tôn kính vị anh hùng này quá, họa sĩ mới vẽ như thế. Nhưng nhiều giai thoại cho rằng: vùng Tà Niên chuyên nghề dệt chiếu, ở đó cũng là căn cứ địa của Nguyễn Trung Trực, chính phó tướng Lâm Quang Ky là người dân vùng này, nên khi nghe Nguyễn Trung Trực bị giặc đem về Rạch Giá hành quyết, người dân Tà Niên (nay thuộc xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành - Kiên Giang) đã bất chấp địch trả thù, họ đem chiếu hoa trải suốt dọc đường người “vị quốc vong thân”.