29 thg 4, 2020

Thuyền độc mộc ở Tây Nguyên, khát vọng từ ngàn xưa

Không chỉ đơn thuần là phương tiện chuyên chở đi lại trên sông nước, thuyền độc mộc của cộng đồng dân tộc bản địa Tây Nguyên là nét văn hóa đặc sắc mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền. Thuyền độc mộc chứa đựng trong đó cả kho tàng văn hóa với khát vọng hòa hợp và chế ngự thiên nhiên của chủ thể văn hóa. 

Sự hòa hợp với thiên nhiên
Tây Nguyên là vùng đất có chung đặc điểm là khu vực hẹp, đất đai nghèo dinh dưỡng, địa hình dốc, dễ sạt lở và thường bị chia cắt bởi nhiều nhánh sông ngắn với 4 hệ thống sông chính, thượng sông Sê San, thượng nguồn sông Sêrêpôk, thượng nguồn sông Ba và sông Đồng Nai. Những con sông lớn như sông Sêrêpôk, dài 406 km và có nhiều thác ghềnh hùng vĩ, sông Đắk Bla dài 139 km. Sông Sê San có chiều dài 237 km, Sông Đồng Nai với chiều dài trên 437 km… Những con sông dài này được hợp bởi nhiều con sông, suối nhỏ đã nuôi dưỡng trong những cánh rừng đại ngàn nên chúng có lưu lượng nước rất lớn, hệ sinh thái của sông rất phong phú và đa dạng nên từ xa xưa, đây là nguồn cung cấp nước tưới, phù sa, thủy sản, nguồn nước sinh hoạt và giao thông thuỷ quan trọng cho cư dân quanh vùng. 

Thuyền độc mộc của người Tây Nguyên. 

Khám phá ngôi đình thờ Vua Hùng ở Hải Dương

Đình An Khoái ở xã Tứ Cường (Thanh Miện) là nơi hiếm hoi thờ Vua Hùng ở Hải Dương. Ngôi đình mang nhiều nét cổ kính, giá trị lịch sử - văn hóa... 

Đình An Khoái là nơi hiếm hoi thờ Vua Hùng ở Hải Dương 

Giàu kiến trúc nghệ thuật
Ngoài thờ Vua Hùng, đình An Khoái còn thờ 3 vị thành hoàng làng là Đào Đại Hùng, Võ Công Trực và Bùi Khán đều có công giúp nhà Hậu Lê.

Cây nhập nhân ở chùa Vĩnh Nghiêm

Du khách tham quan ngôi chùa Vĩnh Nghiêm nổi tiếng tại xã Trí Yên, huyện Yên Dũng (Bắc Giang) thường được nghe các nhà sư, hướng dẫn viên ở đây giới thiệu về một cây hoa trong khuôn viên chùa mang cái tên độc đáo. Đó là cây nhập nhân gắn với bao điều kỳ lạ.

Cây hoa này tọa lạc trong vuông đất nhỏ ngay sau tòa tam bảo, thoáng nhìn giống loài mai tứ quý nhưng cành mảnh mai, ít lá hơn. Theo Đại đức Thích Thanh Vịnh, Phó trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm, các thế hệ nhà sư trụ trì ở đây cũng như người cao niên trong vùng vẫn truyền khẩu cây hoa này đã có khoảng 700 năm tuổi, gần bằng tuổi của ngôi chùa. Mặc dù “cụ” có tuổi khoảng 7 thế kỷ nhưng hiện nay không hề già cỗi mà vẫn xanh tươi.

Du khách tham quan cây nhập nhân. 

Chuyện ít biết về Đoàn Đình Duyệt

Trước Tết Canh Tý, Phòng Văn hóa và Thông tin TP Hải Dương đã gắn biển phố mang tên Đoàn Đình Duyệt (điểm đầu tiếp giáp đường Ngô Quyền, điểm cuối tiếp giáp đường Điện Biên Phủ). 

Nam tước, Đại thần Đoàn Đình Duyệt có nhiều công lao với đất nước và quê hương Hải Dương 

Thông tin về nhân vật lịch sử Đoàn Đình Duyệt được đề cập trong Quốc sử quán triều Nguyễn và tài liệu được các nhà khoa học lịch sử Trung ương và tỉnh Hải Dương công bố tại Hội thảo khoa học với chủ đề: “Nam tước, Đại thần Đoàn Đình Duyệt với đất nước và quê hương Hải Dương”. Hội thảo do Hội Sử học thuộc Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật tỉnh phối hợp với Huyện ủy, UBND huyện Ninh Giang tổ chức đầu năm 2019.

27 thg 4, 2020

Lịch sử Đồ Sơn – Vũ Bằng

Ngài có biết lịch sử Đồ Sơn không? Cái bãi biển thu hàng triệu bạc mỗi vụ hè, nguyên là một ổ trộm cướp không đáng đồng xu nhỏ!

Đó là một sự thực mà khắp thảy Bắc Kỳ đều biết: hiện nay, cứ mỗi khi mùa hè đến, hễ bàn nhau đi tắm bể và lấy gió, người ta đã tính ngay chuyện đi đến Đồ Sơn. Nguyên do không phải là vì Đồ Sơn kém đẹp hay làn sóng ở Đồ Sơn khéo lượn hơn các chốn thừa lương khác. Cũng không phải vì Đồ Sơn đã mất giá rồi. Đó chẳng qua chỉ là vì người ta ham lạ, cái gì cũ quá thì chán, muốn tìm cái mới hơn. Người ta đi nghỉ mát ở Đà Lạt, Chapa, Tam Đảo, Kienchinh, Văn Lý, Đồng Châu, Bãi Cháy[1]… nhưng dù sao ta cũng phải công nhận rằng đã không nói đến nghỉ mát thì thôi, chứ đã nói đến nghỉ mát bãi biển thì Đồ Sơn hiện ra trong trí óc chúng ta trước hết. Tại sao? Đó là bởi Đồ Sơn là bãi biển có trước nhất ở Bắc Kỳ hay, nói cách khác, thì người Bắc Kỳ mình sở dĩ biết đi tắm biển như người Âu Mỹ, ấy cũng là vì Đồ Sơn vậy.

Về nguồn gốc địa danh Đà Lạt

Khi tìm hiểu về nguồn gốc địa danh Đà Lạt, có ý kiến cho rằng tên thành phố này xuất phát từ việc lấy những chữ cái của câu tiếng la tinh "Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem" mà ghép thành. Từ việc hình thành thành phố cao nguyên có khí hậu trong lành mát mẻ với vai trò của người Pháp, đặc biệt là bác sĩ, nhà thám hiểm Alexandre Yersin, ý nghĩa của câu trên (Cho những người này niềm vui, những người khác sự mát lành) với vỏ bề ngoài có vẻ văn chương, "bác học", dễ thuyết phục nhiều người nếu chưa tìm hiểu cặn kẽ, chu đáo.



24 thg 4, 2020

Ném còn, khát vọng và sự kết nối cộng đồng

Không chỉ là trò chơi và hoạt động thể thao dân gian, ném còn còn là nghi thức tín ngưỡng không thể thiếu trong các lễ hội truyền thống của cư dân nông nghiệp miền núi phía Bắc và Tây Nghệ An, Thanh Hóa. 

Trò chơi dân gian hấp dẫn


Được lưu truyền từ xa xưa, ném còn hay tung còn là sản phẩm do chính những người nông dân sáng tạo nên. Không gian và cách thức tổ chức, thực hành của nó cho đến nay dường như không thay đổi. Mỗi dịp hội xuân và hội làng, chủ thể văn hóa lại nô nức tham gia. 

Sự hào hứng của người Khơ Mú với ném còn. 

Lễ cúng ngõ của người M’nông

Lễ cúng ngõ (Ver Bri ) của dân tộc M’nông là nghi lễ liên quan đến các hiện tượng của thiên nhiên như mưa, gió, sấm sét và những vị thần chi phối đến cuộc sống, canh tác nông nghiệp của đồng bào.

Văn hóa cổ truyền giàu bản sắc


Dân tộc M’nông sinh sống ở phía Nam Tây Nguyên, là một tộc người còn bảo lưu nhiều vốn văn hóa cổ truyền giàu bản sắc, tiêu biểu là các lễ hội truyền thống. Xuất phát từ tín ngưỡng vạn vật hữu linh, xem các hiện tượng sự vật tồn tại đều có thần, yang chi phối mọi mặt đời sống, nên đồng bào có những hình thức cầu cúng, lễ nghi để ngăn ngừa điều xấu, mong ước điều tốt đẹp, an lành trong cộng đồng. 

Diễn tấu cồng chiêng trong lễ hội. 

Dân ca - tình yêu tinh chất văn hóa Thái

Từ trong dòng chảy tộc người, người Thái Tây Bắc đã sản sinh ra một loại hình văn hóa dân gian xuất sắc dân ca tình yêu tiếng lòng của người xứ mây, xứ núi.

Loại hình phong phú tác phẩm đồ sộ


Từ lâu đời người Thái đã là chủ nhân của một vùng đất đai núi non hùng vĩ miền Tây Bắc từ giải Hoàng Liên Sơn đến vùng núi cánh cung sông Mã, sông Đà. Từ miền núi non hiểm trở với rừng già, thú dữ người Thái đã chinh phục các vùng thung lũng bao la lập nên kỳ tích văn minh lúa nước và sáng tạo ra những hình thức dân ca phong phú, hấp dẫn, sâu sắc, độc đáo.

Những cô gái Thái uyển chuyển trong điệu múa của dân tộc mình. 

Bốn người con còn sống sót của Nguyễn Trãi

Vụ án Lệ Chi Viên đã giết hại nhiều người trong gia đình, họ tộc Nguyễn Trãi. May mắn là vẫn còn những người sống sót. 

Nhà thờ dòng họ Nguyễn Trãi ở thôn Chi Ngãi, phường Cộng Hòa (Chí Linh). Ảnh: Thành Chung 

Họ đã phải phiêu tán khắp nơi, mai danh ẩn tích song vẫn duy trì được dòng tộc cho đến ngày nay.

Ngôi đình thờ con gái Triệu Việt Vương

Đình Trình Xá ở thôn Trình Xá, xã Gia Lương (Gia Lộc) thờ thành hoàng là công chúa Mỵ Châu, con gái của Anh hùng dân tộc Triệu Việt Vương (thế kỷ 6). 

Gian hậu cung đình Trình Xá đã được làm mới hoàn toàn 

Với những giá trị về văn hóa, lịch sử, đình đã được công nhận là di tích cấp quốc gia vào năm 1999.

Yên Thế: Mạch nguồn chảy mãi

Tôi cảm giác trong núi đồi, sông suối Yên Thế (Bắc Giang) còn lưu giữ những hình bóng xưa mà đậm nét nhất là cuộc khởi nghĩa chống giặc Pháp kéo dài ba mươi năm từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX do cụ Đề Thám lãnh đạo.

Dân gian còn lưu truyền những câu ca dao khắc tạc tên tuổi Hoàng Hoa Thám cùng những tướng lĩnh, nghĩa quân trong cuộc kháng chiến nhiều thăng trầm ấy: Ba mươi năm khắp núi rừng/ Danh ông Đề Thám vang lừng trời Nam.

Barthouet- một sĩ quan Pháp từng tham gia các cuộc hành binh càn quét nghĩa quân Yên Thế đã viết trong cuốn Thảm kịch của người Pháp tại Đông Dương, xuất bản năm 1948: Ông Đề có tài rèn luyện người, đào tạo nghĩa quân trở thành những cấp chỉ huy, những con người hoàn hảo trên chiến trường, dũng cảm và quyết đoán.

Miribel, một quan chức thuộc Phủ Thống sứ Bắc Kỳ thời đó báo cáo về Pháp: Tên tuổi của Hoàng Hoa Thám đã trở thành một biểu tượng được trân trọng trong dân chúng An Nam. Nó đã trở thành một mật hiệu để liên kết tất cả những người bất mãn chống lại chúng ta. 

Lễ hội Yên Thế. Ảnh: An Khánh

Làng đúc các bảo vật quốc gia ở Huế

Ai đã từng đến Huế đều không khỏi ngạc nhiên trước những tuyệt tác đúc đồng nặng hàng tấn, thậm chí đến cả chục tấn như: bộ vạc đồng, quả đại hồng chung chùa Thiên Mụ, bộ Cửu đỉnh (9 đỉnh lớn), bộ Cửu vị thần công (9 khẩu đại pháo).Đáng kinh ngạc hơn, nơi đúc nên những bảo vật quốc gia có một không hai này không đâu khác mà chính là Phường Đúc, một làng nghề nhỏ nằm bên bờ Nam sông Hương, cách kinh thành Huế không xa. 

Nằm bên bờ Nam sông Hương, cách kinh thành Huế chừng 3 cây số về phía Tây Nam có một làng nghề đúc đồng truyền thống rất nổi tiếng. Xưa dân trong vùng quen gọi nơi ấy là phường Đúc, hàm chỉ đấy là nơitụ hội sinh sống làm ăn của phường thợ đúc.Nay cái tên ấy cũng đã thành tên gọi hành chính của một phườngở thành phố Huế, đó là phường Phường Đúc.

22 thg 4, 2020

Kì thú tượng gốc tre phố Hội

Nằm bên hông chợ Hội An ở phố cổ Hội An cổ kính có một gian hàng nhỏ bày hàng trăm bức tượng chân dung cổ quái và kì lạ, được tạc bằng gốc tre, khiến cho ai đi ngang qua cũng phải tò mò đứng lại chăm chú ngắm nhìn. 

Đó chính là nơi bán hàng và cũng là nơi làm việc của nghệ nhân Huỳnh Phương Đỏ, người có biệt danh là “Đỏ gốc tre”. Cửa hàng của anh nằm bên đường, ngay cạnh chợ, nơi lúc nào cũng nườm nượp người đi chợ và du khách qua lại nên hầu như ai cũng biết.

Ở Hội An, anh Đỏ nổi tiếng tới mức dân địa phương hầu như ai cũng biết, bởi anh có biệt tài tạc tượng gốc tre đẹp, hiếm có người thứ hai làm được. Thậm chí báo chí trong Nam ngoài Bắc tìm đến viết về anh cũng khá nhiều.

Với nhiều người gốc tre là thứ vứt đi hoặc cùng lắm là làm củi đun nấu của dân nghèo, nhưng với “Đỏ gốc tre” nó là thứ của hiếm được dùng để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật độc đáo có một không hai.

Về địa danh Phan Rang – Tháp Chàm

Khi tiếp cận địa danh Phan Rang – Tháp Chàm, tên hành chính của thành phố thuộc tỉnh Ninh Thuận hiện nay, nhiều người chưa rõ vì sao có cách ghép như vậy; lại có nhiều cách giải thích khác nhau. Sau một thời gian tìm hiểu các nguồn tư liệu, xin trình bày sơ lược đến quý độc giả rằng: Phan Rang – Tháp Chàm có một lịch sử xuất hiện, thay đổi theo từng giai đoạn khác nhau. 

Quang cảnh thành phố Phan Rang - Tháp Chàm 

Về vị trí thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, phía Bắc giáp huyện Bác Ái và huyện Ninh Hải, phía Tây giáp huyện Ninh Sơn, phía Nam giáp huyện Ninh Phước, phía Đông giáp biển Đông.

Tên gọi tỉnh Hải Dương có từ bao giờ?

Ngày nay, ít người biết tên gọi “Hải Dương”, “tỉnh Hải Dương” có từ bao giờ. 

Nhà sử học Tăng Bá Hoành và những tài liệu chứng minh tên gọi tỉnh Hải Dương có từ năm 1831 

Để giải đáp thắc mắc trên, người đầu tiên chúng tôi tìm gặp là ông Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương. Vốn nghiên cứu sâu vấn đề này, ông nói luôn: Năm 1466 (tức năm Quang Thuận thứ 7, đời Lê Thánh Tông), nước ta chia thành 12 thừa tuyên. Lúc ấy tỉnh ta gọi là Nam Sách thừa tuyên. Năm 1469 (năm Quang Thuận thứ 10) định lại bản đồ đất nước và Nam Sách thừa tuyên được đổi thành Hải Dương thừa tuyên. Tên gọi Hải Dương bắt đầu từ đó.

Để chứng minh cho lời nói của mình, ông Hoành cho chúng tôi xem sách “Đại Nam nhất thống chí”. Trang 355, phần về tỉnh Hải Dương, sách viết: “Năm thứ 10 (tức năm Quang Thuận thứ 10 - 1469), định bản đồ cả nước, gọi là Hải Dương thừa tuyên, lãnh 4 phủ là Thượng Hồng, Hạ Hồng, Nam Sách và Kinh Môn, 18 huyện”.

Ký sự sông Cầu (kỳ 4): Chung tay bảo vệ dòng sông

Việc bảo vệ dòng sông Cầu không đơn thuần chỉ là nhiệm vụ của các ngành chức năng. Cần lắm sự vào cuộc của mỗi người dân để dòng sông giữ mãi vẻ trong xanh, phục vụ bền vững cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của một nửa dân số tỉnh Bắc Kạn.
Trong hành trình tới xã Rã Bản (Chợ Đồn) chúng tôi đã rất đồng tình với việc làm của UBND xã. Theo đồng chí Triệu Văn Nguyên- Chủ tịch UBND xã, xã thường xuyên phổ biến, đôn đốc người dân các thôn tập trung thu gom, phân loại rác tại từng hộ gia đình. Rác hữu cơ để phân hủy làm phân bón, rác vô cơ thì đốt tập trung tránh tình trạng vứt bừa bãi xuống sông Cầu. Một việc làm nhỏ ấy lại mang ý nghĩa to lớn trong bảo vệ dòng sông cần được các xã trong lưu vực sông Cầu học tập.

Ký sự sông Cầu (kỳ 3): Dòng sông kêu cứu

Lời kể của các cụ cao niên về độ cạn kiệt của dòng sông Cầu đang gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh. Dòng sông qua thi ca, đoạn chảy qua vùng đất Bắc Kạn đang đứng trước sự xâm hại từ nhiều phía. Sông đang lên tiếng cầu cứu con người phải biết trân trọng, bảo vệ...

Ông Đặng Văn Oanh, thôn Nà Cà 1, xã Cao Kỳ (Chợ Mới) là một tay đánh cá lão làng trên sông Cầu. Cuộc mưu sinh bằng nghề chài, lưới trên sông đã giúp ông và gia đình vượt qua những ngày gian khó nhất của thời kinh tế khó khăn. Cho tới tận bây giờ tôm, cá đánh bắt được trên sông trở thành đặc sản thì giá lại càng đắt đỏ. Thế nhưng, đánh bắt tôm, cá bây giờ chẳng còn dễ như xưa.

Ông Oanh buồn nói: Những năm trước đi quăng đánh cá một lúc là đầy giỏ, còn giờ trắng đêm có khi chỉ đủ bữa ăn cho gia đình. Có nhiều loài cá đã biến mất, chẳng còn thấy bao giờ. Đang vá lại cái chài đánh cá bỏ lâu rồi bị chuột cắn rách ông bảo: Cứ thế này thì gay!

Ký sự sông Cầu (kỳ 2): Cuộc sống bên dòng sông

Cũng như những dòng sông khác, những bản làng, cánh đồng bên bờ sông Cầu đoạn qua Bắc Kạn thật êm đềm, trù phú. Nhưng bên trong của nó cũng đã phải trải qua những biến cố dữ dội. Dòng sông mang phù sa bồi đắp cho những cánh đồng màu mỡ và cũng có lúc nó ồn ào, hung dữ tàn phá đôi bờ. Có người bảo đấy là dòng sông trả hận việc con người tàn phá rừng thượng nguồn. 

Lưu vực sông Cầu trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn có diện tích là 1.372,78 
km2, bao gồm 44 xã, phường, thị trấn. Dân số trong lưu vực là 153.096 người (bằng một nửa dân số toàn tỉnh), tỷ lệ gia tăng dân số khoảng 0,63%, dân số khu vực đô thị có xu hướng tăng lên hàng năm. Cơ cấu lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản và dịch vụ; trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng chỉ chiếm 6,3%. Lao động ở khu vực nông thôn chủ yếu là làm ruộng gắn với chăn nuôi, làm vườn và dịch vụ.

Sông Cầu là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho tưới tiêu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, với tổng lượng nước hàng năm ước tính khoảng 20 triệu 
m3, một số dòng chảy được sử dụng cho mục đích sinh hoạt, sản xuất điện ( hồ Thuỷ điện Nặm Cắt có diện tích mặt nước trên 200ha). Những con số khô khan ấy đủ cho thấy dòng sông Cầu có ý nghĩa lớn như thế nào đối với sản xuất và đời sống của nhân dân tỉnh Bắc Kạn.

Ký sự sông Cầu (kỳ 1): Về nơi đầu nguồn

Đi vào lịch sử, đi vào thơ ca, âm nhạc và đi vào nỗi nhớ của những người con xa quê hương. Đối Bắc Kạn, sông Cầu là sự gắn kết bao đời nay, nuôi sống hàng vạn con người. Hành trình khám phá dòng sông trên địa phận Bắc Kạn chưa được nhiều, nhưng thực sự đã đem lại cho tôi những điều mới mẻ.

Kỳ 1: Về nơi đầu nguồn

Sông Cầu, miền xuôi còn gọi sông Như Nguyệt, là con sông quan trọng nhất trong hệ thống sông Thái Bình, có ý nghĩa to lớn với đồng bằng sông Hồng và lưu vực của nó. Khởi nguồn từ Bắc Kạn con sông hiền hòa uốn mình chảy về miền xuôi qua 6 tỉnh...

Đường về Chợ Đồn theo tuyến tỉnh lộ 257 giờ đã thuận tiện, dễ dàng. Con đường đang sắp hoàn thành cải tạo, bon bon xe chạy. Nơi thượng nguồn sông Cầu, núi non hùng vĩ, sông chẻ núi mà đi, uốn khúc quanh co, có đoạn chảy qua thác ghềnh dữ dội.

Giá trị văn hóa độc đáo chùa làng Vẽ

Chùa Vẽ thuộc làng Vẽ, phường Thọ Xương, TP Bắc Giang (Bắc Giang) hiện còn bảo lưu nhiều giá trị di sản văn hoá độc đáo.

Năm 2018, khi tu sửa chùa, người dân địa phương đã phát hiện 3 bệ chân tảng đá hoa sen mang phong cách thời Trần (thế kỷ XIII-XIV) dưới phần nền toà Tam bảo. Bệ đá chân tảng có cạnh hình vuông, chất liệu đá xanh, bề mặt trang trí hình hoa sen được bố cục các cánh thành một vòng tròn. Hoa sen bao gồm 16 cánh chính và 16 cánh phụ ở dưới. Viền theo các cánh sen có một đường gờ chìm. Nét chạm tỉ mỉ, tinh tế, tôn lên vẻ cao quý của hoa sen. Điều này mở ra cái nhìn mới về lịch sử chùa Vẽ, có thể ngôi chùa cổ này đã được xây dựng từ thời Trần - khác với trước đây người ta cho rằng chùa Vẽ được xây dựng dưới thời Lê (thế kỷ XVII- XVIII).

Chùa Vẽ.

Xuân theo sông Thương

Thật đa nghĩa, khi ta nghĩ về tên gọi của dòng sông. Đó là biếc xanh, như trường hợp nói câu “Thương hải biến vi tang điền” (Biển biếc biến thành ruộng dâu) khi sông trong vắt mà róc rách chảy qua vùng đồi núi khởi nguồn Chi Lăng, Hữu Lũng.
Nhưng lại là nhớ thương khi đến chỗ có ngôi làng Thương ở bờ bên phải tòa Phủ Lạng Thương, thì các cuộc tiễn đưa xưa phải chia tay ly biệt người từ kinh đô lên biên ải. Còn lúc biến âm mà nói Thương thành Xương, như khi đọc các địa danh: Thọ Xương, Xương Giang… thì đó lại thành ra là tươi tốt, thịnh giàu.

Sông Thương đoạn chảy qua TP Bắc Giang. Ảnh: Hương Giang

19 thg 4, 2020

Khám phá Phia Oắc - Phia Đén

Vườn Quốc gia Phia Oắc - Phia Đén (huyện Nguyên Bình) được ví như một “viên ngọc quý” có giá trị về đa dạng sinh học và địa mạo địa chất mà thiên nhiên ban tặng cho mảnh đất biên cương Cao Bằng.

Phia Oắc - Phia Đén là tên hai đỉnh núi cao nhất trong khu vườn quốc gia. Đỉnh Phia Oắc có độ cao 1.931 m, được ví như "nóc nhà” phía Tây của tỉnh Cao Bằng. Hiện nay, vườn có 496 loài động vật có xương sống, ngoài ra còn hàng nghìn loài động vật không xương sống, côn trùng... Trong số các loài động vật có tên trong danh mục, đã xác định được 58 loài động vật quý hiếm, bao gồm 30 loài thú có tên trong Sách đỏ Việt Nam; 12 loài bò sát, trong đó 3 loài ở thứ hạng cực kỳ nguy cấp; 3 loài ếch nhái, trong đó 2 loài ở thứ hạng cực kỳ nguy cấp. Đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý hiếm, những nguồn gen động vật này có giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn cao.

Nơi đây có cấu tạo địa chất rất đặc biệt với những dãy núi cao, nhiều khoáng sản quý hiếm như vàng, bạc, thiếc, vonphram, quặng uranium... Phia Oắc - Phia Đén vẫn giữ được rừng nguyên sinh, hệ sinh thái đa dạng, nhiều loài động thực vật quý hiếm. Đặc biệt, nơi đây có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, không khí trong lành, mát mẻ, có băng tuyết về mùa đông và là nơi lý tưởng cho phát triển du lịch sinh thái.

Đỉnh Phia Oắc với cung đường uốn lượn giữa rừng già. Ảnh: An Nhiên

Một thoáng Cô Thôn

Mặc cho sự khắc nghiệt của thời gian và sự tác động của đời sống thời hiện đại, buôn Cô Thôn vẫn bền bỉ giữ gìn được những giá trị di sản văn hóa và tập tục có từ lâu đời của tộc người Ê Đê bản địa ở thành phố Buôn Ma Thuột. 

Nằm ở cuối đường Trần Nhật Duật, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk chừng 2km về hướng Bắc là buôn Cô Thôn hay còn gọi là buôn Ako Dhong. Trong tiếng Ê Đê, Ako Dhong có nghĩa là đầu nguồn suối và trên thực tế buôn này cũng nằm ngay đầu nguồn suối Ea Nuôl.

Buôn Cô Thôn được xem là buôn làng giàu mạnh, đẹp nhất Tây Nguyên và có lẽ cũng là buôn duy nhất hiện còn giữ được dáng dấp, nét độc đáo của buôn làng truyền thống người Ê Đê.

Vẻ đẹp độc đáo ngôi nhà dài truyền thống của người Ê Đê ở buôn Cô Thôn. Ảnh: Thanh Hòa

Trải nghiệm 7km nối dài của động Thiên Đường

Động Thiên Đường (thuộc Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng) từ lâu là địa điểm du lịch quen thuộc với những du khách mỗi khi đến Quảng Bình. Thế nhưng, hầu hết du khách chỉ biết đến tour 1km đầu được xây cầu gỗ và ánh sáng dẫn đường, mà ít người biết rằng phía sau còn có 7km hang động chỉ dành cho du khách ưa thích sự kỳ bí khám phá. 

Trước khi bắt chuyến khám phá, chúng tôi được nghe hướng dẫn viên giới thiệu thông tin cơ bản của hành trình và mỗi người được phát chiếc đèn pin nhỏ đội đầu cùng đôi dép rọ. Sau khi kết thúc đoạn 1km hang đã đưa vào khai thác du lịch, chúng tôi bắt đầu đi xuống và phải bật đèn trên đầu để có đủ ánh sáng nhìn đường đi để khám phá 7km tiếp theo trong tour 2 du lịch động Thiên Đường.

Khoảng 500m đầu tiên, qua ánh sáng le lói của chiếc đèn pin, chúng tôi thấy hơi nước ở dưới lòng động bốc lên khiến không gian trở lên huyền ảo. Ở dưới chân có thể thấy các khối măng đá có hình thù khác nhau. Không chỉ vậy, càng đi sâu vào trong động, chúng tôi bắt gặp những nhũ đá mà theo hướng dẫn viên gọi là nhũ ống, nhũ cành, nhũ rèm có màu đen, vàng, trắng...

Bánh dân gian của đồng bào Chăm

Nhiều món bánh dân gian truyền thống của người Chăm như: bánh bò nướng, bánh cay, bánh nambarang, bánh bông lan… thường có những nguyên liệu cơ bản là bột mỳ, bột gạo, nước dừa hoặc nước của cây thốt nốt cùng với ớt cay hòa quyện nên hầu hết mang hương vị thơm nồng, béo và cay vốn là đặc trưng khẩu vị yêu thích của họ. 

Những món bánh truyền thống này thường được làm nhiều vào nhịp dịp cưới hỏi, nghi lễ tôn giáo, dịp lễ hội, tết truyền thống... Nguyên liệu và cách chế biến bánh của đồng bào Chăm ở An Giang đã mang lại một nét đặc trưng rất riêng so với các loại bánh cùng tên do những nơi khác làm ra.

Nguyên liệu cơ bản thường dùng làm các loại bánh kể trên là bột mỳ, bột gạo, hột vịt, nước cốt dừa, củ hành, ớt, muối… ngoài ra, một số loại bánh còn dùng các loại lá cây có nhiều ở địa phương dùng để trang trí và tạo thêm mùi thơm cho món bánh. Mỗi món bánh sẽ có một cách pha chế nguyên liệu và cách nấu riêng để mang lại hương vị khác biệt của món bánh đó. Như bánh bò, bánh nambarang được làm từ bột gạo, bánh bông lan làm từ bột mỳ và phải có thêm nước cốt dừa hoặc bột dừa để tạo độ xốp cho chiếc bánh, khi ăn sẽ mang lại cảm giác giòn thơm, không quá dai. Có thể thay thế nước cốt dừa bằng nước của trái thốt nốt sẽ làm món bánh thơm mùi thơm đặc trưng của trái thốt nốt – vốn là loài cây có rất nhiều ở vùng đất An Giang.

Bột gạo và bột mỳ là những nguyên liệu chính để làm những món bánh dân gian truyền thống của đồng bào Chăm như bánh bò nướng, bánh cay, bánh namparang.

Cốm nếp một năm chỉ có hai lần

Người H'Re làm cốm từ nếp mới gặt, chưa phơi, chưa bóc vỏ; trộn với chả, trứng gà để thưởng thức thành quả đầu mùa. 

Cuối tháng ba, những cánh đồng ở huyện miền núi Ba Tơ, Quảng Ngãi nhuộm sắc vàng với lúa chín vụ Đông Xuân. Ngoài các giống lúa thông thường để nấu cơm, người H'Re còn để dành những thửa ruộng nhỏ để trồng nếp "sọc sạc", một giống nếp thuần chủng được gìn giữ qua nhiều đời để gói bánh tét, nấu rượu, làm cốm... 


Bà Phạm Thị Thung gặt lúa nếp vụ Đông Xuân. Ảnh: Phạm Linh. 

Cây hoa bún: "Báu vật" 300 năm tuổi của làng Đình Thôn

Cây hoa bún có tuổi đời khoảng 300 năm tuổi được người dân Đình Thôn (Mỹ Đình, Hà Nội) được xem như “báu vật” của làng. Cây hoa bún độc nhất vô nhị ở Hà Nội nở màu vàng rực rỡ và trở thành nét đặc trưng của làng Đình Thôn mỗi khi tháng 4 về. 

Cây hoa bún có tuổi đời đến 300 năm có lẻ đã gắn bó bao đời với người dân trong làng Đình Thôn đang trổ hoa vàng rực rỡ. 

16 thg 4, 2020

Dệt thổ cẩm Hoa Ban - Sắc màu văn hóa Mai Châu

Mỗi khi đến với những bản làng văn hóa các dân tộc tại huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, du khách không thể không ghé thăm xưởng dệt Thổ cẩm Hoa Ban tại xã Nà Pòn, bản Lác. Đây là địa điểm trải nghiệm để du khách tìm hiểu về dệt lụa thổ cẩm truyền thống của người dân địa phương đồng thời tham quan showroom trưng bày sản phẩm cạnh cơ sở sản xuất. 

Xưởng dệt thổ cẩm Hoa Ban được thành lập và phát triển từ năm 2008, sản phẩm ở đây được làm thủ công truyền thống với nguyên liệu là những cây trồng thiên nhiên bản địa. Chị Vi Thị Thuận- nghệ nhân người dân tộc Thái là quản lý của cơ sở sản xuất dệt thổ cẩm Hoa Ban cho biết: đội thợ của Hoa Ban vững tay nghề và tâm huyết với công việc. Một số chị em đã tích cực học thêm tiếng Anh để có thể giới thiệu đến du khách nước ngoài nét độc đáo của sản phẩm thổ cẩm cũng như tái hiện quy trình làm ra sản phẩm. Hoa Ban hiện có hơn 30 dòng sản phẩm như: túi xách, quần áo, khăn, ví, gối, dép, các con thú xinh xắn…., hoạ tiết cầu kỳ, tinh xảo mang đậm nét văn hóa của người dân tộc Thái, Mường...

Bản Lác, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình là một trong những địa danh du lịch khám phá
với những sắc màu văn hóa của vùng cao trong đó có xưởng dệt Thổ cẩm Hoa Ban. 

Làng thêu Quất Động

Làng thêu Quất Động, huyện Thường Tín (Hà Nội) từ lâu đã nổi tiếng bởi chuyên thêu các trang phục cung đình thời phong kiến. Ngày nay, những sản phẩm thêu tay sắc màu rực rỡ, khắc họa nét đẹp đất nước con người Việt Nam được bạn bè quốc tế gần xa ưa chuộng, tin dùng. 

Ông tổ nghề Thêu của làng Quất Động là tiến sĩ Lê Công Hành sống ở thế kỷ XIV. Một lần đi sứ sang Trung Quốc, ông học được nghề thêu và mang những hiểu biết, kiến thức đã học được về truyền lại cho dân làng. Trải qua thời gian, người dân trong làng đã sáng tạo ra nhiều mẫu mới, đưa nhiều chủ đề vào tranh thêu với các nội dung thể hiện nếp sinh hoạt trong đời sống của người Việt. Trình độ thêu tay ở Quất Động cũng từ đó đạt đến độ tinh xảo và điêu luyện.

Sau công việc của nhà nông là trồng lúa thì người dân trong làng Quất Động tập trung làm nghề thêu. Đến Làng Quất Động, trong mỗi gia đình đều có khung thêu truyền thống. Nhiều gia đình có đến 7 thế hệ làm nghề thêu.

Làng nghề thêu tay Quất Động có nhiều người dân các tỉnh về học. Ảnh: Trịnh Bộ

Làng rèn Phúc Sen

Nghề rèn thủ công truyền thống của người Nùng An đã mang lại cuộc sống ấm no cho người dân xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng. Nơi đây trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn du khách thập phương, góp phần làm phong phú thêm hành trình khám phá vùng đất Cao Bằng.

Làng Phúc Sen cách thành phố Cao Bằng khoảng 30km, nghề rèn nơi đây có lịch sử trên 300 năm. Ban đầu, làng chỉ rèn các nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật dụng sinh hoạt. Ngày nay, sản phẩm của làng nghề phong phú đa dạng hơn, có uy tín không chỉ trong phạm vi tỉnh Cao Bằng mà còn có mặt ở nhiều tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên, thành phố Hà Nội của nước ta cũng như các huyện biên giới của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.

Mặc dù các sản phẩm ở đây không bóng bẩy, bắt mắt, lại có giá bán cao gấp hai, ba lần sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, nhưng hàng sản xuất ra tới đâu, bán hết tới đó. Hiện nay, ở Phúc Sen có khoảng 160 lò rèn, giải quyết việc làm cho hơn 300 lao động, mang lại thu nhập ổn định cho người dân.

Xã Phúc Sen có khoảng 160 lò rèn, giải quyết việc làm cho hơn 300 lao động địa phương.

Bánh gối Lý Quốc Sư

Nói đến con phố Lý Quốc Sư (Hà Nội), người ta nghĩ ngay tới món Phở. Nhưng cũng thật là thiếu sót nếu du khách ghé thăm con phố này mà không qua thưởng thức món bánh gối quán Cây Đa xưa nay nổi tiếng nhất nhì đất Hà Thành.
Mặc dù quán khá nhỏ, đơn sơ, chỉ vài chiếc bàn đôi như những ăn quán bình dân khác nhưng tiếng lành đồn xa và kinh nghiệm lâu đời gần 30 năm tồn tại của quán thì nhiều người không khó để tìm ra quán Cây Đa. Đặc điểm nhận diện quán bánh gối nức tiếng này chính là cây đa cổ thụ bao trùm cả không gian và một sạp đồ phía trước với đầy đủ các loại bánh đã được rán vàng ruộm. Trong đó có món bánh gối được xem là một trong những thứ bánh được làm theo phương thức gia truyền lâu năm.

Bà Nguyễn Mỹ Lộc, chủ quán Cây Đa cho biết: Từ năm 1983, Mẹ bà là cụ Nguyễn Thị Thuận khi nghỉ hưu đã mở bán món bánh gối này. Trong quá trình bán, có phương pháp chế biến cho nhân bánh đầy đặn hơn và được khách hàng ăn tự cảm nhận được vị ngon nên đến nhiều hơn.

Quán bánh gối Gốc Đa nằm trên con phố Lý Quốc Sư, Hà Nội.

14 thg 4, 2020

Con đường tơ lụa Việt

Tuy không phải là một “đế chế” trên con đường tơ lụa vĩ đại của nhân loại, nhưng tơ lụa của Việt Nam luôn được thế giới đánh giá cao vì có những phẩm chất đặc biệt riêng. Vì vậy, không ngạc nhiên khi ông Fei Jianming, Tổng thư kí Hiệp hội Tơ lụa Thế giới đã nhận xét rằng: “Trong số các quốc gia Đông Nam Á, ngành tơ lụa Việt Nam có nền tảng tốt nhất với những làng nghề hàng nghìn năm tuổi. Việt Nam xuất khẩu nhiều sợi se hơn Nhật Bản và Trung Quốc, đồng thời xuất nhiều tơ sống hơn Campuchia và Thái Lan…”. 

Chuyện từ những làng tơ lụa cổ

Trong ngôi nhà rường tuyệt đẹp nằm cạnh một khu vườn dâu cổ thụ xanh mướt ở phố cổ Hội An, Lê Thái Vũ, ông chủ của Công ty Cổ phần Tơ lụa Quảng Nam, một doanh nhân giàu có và thành đạt vào hạng nhất nhì của giới kinh doanh tơ lụa Việt Nam đang tiếp chuyện một đoàn thương gia hàng đầu trong giới tơ lụa thế giới đến từ các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Pháp, Ý…

Như lệ thường, làm việc với các đối tác, ông Vũ không chỉ bàn về các thương vụ làm ăn mà còn dành nhiều thời gian để giới thiệu về lịch sử, tiềm năng và thế mạnh của ngành tơ lụa Việt Nam. Bởi theo ông, lụa là một sản phẩm mang đậm dấu ấn văn hóa của quốc gia, vì vậy những thông tin ấy rất có giá trị trong việc đánh giá phẩm cấp và thứ hạng tơ lụa của một nước.

Kĩ thuật chăn tằm truyền thống có khoảng 400 năm của người dân xứ Quảng. Ảnh: Thanh Hòa

Hoa ngô đồng trong Hoàng cung

Loài hoa ngô đồng do vua Minh Mạng chọn trồng trong Hoàng cung Huế đang khoe sắc tím rực rỡ. 

Hoàng cung Huế vắng lặng không một bóng người khi tỉnh Thừa Thiên Huế cho đóng cửa để phòng Covid-19. Những ngày này, Hoàng cung được tô điểm bởi loài hoa ngô đồng. 

Phố Hội vàng rực hoa sưa

Những hàng sưa trổ hoa vàng rực trên những tuyến phố tĩnh lặng hiếm thấy mang lại vẻ đẹp khác lạ cho Hội An. 

Hai bên đường Phan Chu Trinh rợp sắc hoa sưa vàng. Nhiếp ảnh gia Đỗ Anh Vũ (Hội An), tác giả bộ ảnh, cho biết ở phố cổ có 2 tuyến đường chính trồng hoa sưa là Nguyễn Huệ và Phan Chu Trinh, mỗi nơi có 20 cây. 

Mùa xuân ở Phố Trồ

Giữa thung lũng đá tai mèo khô khốc, Phố Trồ hiện ra như một bức tranh sơn thủy với những nếp nhà bao quanh hồ nước trong xanh. 

Phố Trồ là một thôn nhỏ gần trung tâm thị trấn Phó Bảng, huyện Đồng Văn, cách cửa khẩu Phó Bảng chưa đầy 5 km. Địa danh này được trời ban vẻ đẹp non nước hữu tình, với điểm nhấn là hồ Rồng rộng 1 ha chưa bao giờ cạn, ở chính giữa thôn. Đây được cho là điều hiếm có ở cao nguyên đá, được người bản địa coi trọng và gìn giữ. 

12 thg 4, 2020

Đình Phong Phú: một nơi ấm áp và mát mẻ giữa Sài Gòn

Khách du lịch đi Thành phố Hồ Chí Minh thường chủ yếu “ăn quận Năm, nằm quận Ba, là cà quận Nhất”, có chăng là tham quan thêm Củ Chi. Nếu cùng người địa phương, đi lang thang mới thấy thành phố này rộng mênh mông như thế nào. Nhiều người chê rằng tên Thành phố Hồ Chí Minh quá dài, nhưng nếu gọi đúng ra theo địa danh thì phải là thành phố Sài Gòn-Gia Định hay thành phố Sài Gòn-Gia Định-Chợ Lớn còn dài nữa. Rời trung tâm Sài Gòn, đi về phía đông tức tỉnh Gia Định cũ, ta vẫn còn tìm thấy nhiều giá trị văn hóa lịch sử.
Quận 9 được thành lập lại từ năm 1997, tách ra từ Huyện Thủ Đức, phía Đông Bắc giáp Biên Hòa, Dĩ An, “đô thị hóa” đến nay đã 20 năm nhưng vẫn còn rất nhiều phong vị của một vùng nông thôn ngoại ô. Mình đi qua một con đường tên là đường “Đình Phong Phú” thì thấy rất thú vị vì bên quận 8 cũng có một chỗ tên là “đường Phong Phú”, trên đường có Đình Phong Phú. Thì ra ở quận 9 này cũng có một Đình Phong Phú và do trùng tên nên đường phải đặt thành “Đường đình Phong Phú”.

6 thg 4, 2020

Thiền viện Toàn Giác ở Trảng Bom

Thật tình là trước đây tui chưa hề biết hay nghe nói gì đến ngôi thiền viện này, cho đến khi tui đi tìm ngôi chùa mang tên chùa Đèn Cầy, tức Viên Giác thiền tự, ở ấp Đoàn Kết, xã Giang Điền, huyện Trảng Bom. Trên đường đi tìm Viên Giác thiền tự, tui gặp một cổng chùa không phải Viên Giác mà là Toàn Giác. Dường như là khuôn viên chùa khá rộng, vì xe chạy lòng vòng khá xa thì lại thấy tiếp một cổng thiền viện Toàn Giác nữa!

Cổng tam quan Thiền viện Toàn Giác

Khi tìm hiểu về Viên Giác thiền tự, tui lại phát hiện thêm một chi tiết: vị sư sáng lập ra Viên Giác thiền tự và hiện là trụ trì nơi đây vốn xuất thân tu tập ở Toàn Giác thiền tự. Vậy là tui tò mò quay trở lại xã Giang Điền để viếng ngôi Toàn Giác thiền tự.

Tản mạn xích lô Huế

Du khách đến Huế đi thăm thú cảnh đẹp Cố đô bằng một cuốc xích lô là thú vui tao nhã và luôn đem lại những cảm xúc thú vị khó tả. Xích lô Huế màu sắc không loè loẹt, vóc dáng không cao quá khiến cho người ngồi cảm thấy chông chênh nhưng cũng không quá thấp để khó bề quan sát cảnh vật ở chung quanh, và không quá rộng để cho đôi tình nhân cảm thấy xa cách mà cũng chẳng quá chật để cho ai đó cảm thấy ngại ngùng mỗi lúc phải ngồi chung... 

Đi xích lô giữa khung cảnh phố phường trầm mặc đầy hoài cổ của xứ Huế bao giờ cũng đem lại cái cảm giác phiêu diêu rất lạ. Nếu không tin bạn cứ thử lên một chiếc xích lô, ngả mình vào tấm đệm ghế êm mềm rồi thử một vòng dạo quanh thành phố Huế thì sẽ thấy ngay được cái cảm giác tuyệt vời hiếm có đó.

Xe chạy êm êm chậm rãi lướt đi trên những con đường rợp bóng lá me bay. Xe đi đến đâu thành quách, phố xá, dòng sông và cả những khu vườn yên tĩnh hiện dần ra đến đấy khiến cho lòng người như chẳng thể muốn rời xa. Đi xích lô trên đường phố Huế, dù là khách lạ hay quen bao giờ cũng có cái cảm giác như mình vừa ở đâu xa nay mới được trở về nhà, về với Huế yêu thương và gần gũi.

Đoàn xích lô đưa du khách đi tham quan kinh thành Huế. Ảnh: Thanh Hòa

Bánh đúc chấm tương

Bánh đúc là món ăn bình dị suốt bao đời ở Hà Nội. Cùng với sự phát triển của đô thị, bánh đúc cũng biến tấu đi, mới mẻ hơn, độc đáo hơn thành những món bánh như: bánh đúc nóng, bánh đúc thịt... Nhưng dù có bao nhiêu loại bánh đúc khác xuất hiện đi nữa thì món bánh đúc lạc chấm tương truyền thống vẫn luôn hiện hữu và được ưa thích nhất. 

Món bánh đúc chấm tương bắt đầu có ở Hà Nội khoảng những năm 60 của thế kỷ trước, khi xung quanh những ngôi nhà tập thể mọc lên những hàng quán bán đồ ăn vặt. Thế nhưng, ở Hà Nội bây giờ bánh đúc được bán ở nhiều nơi như các gánh hàng rong trên phố, hoặc các khu chợ như chợ Đồng Xuân, hàng Bè và nhiều nhất là ở Phủ Tây Hồ.

Những miếng bánh đúc trắng mịn, loáng thoáng lạc và dừa được xếp gọn gàng trên đĩa. Thời xưa, người làm bánh đúc rất cầu kỳ ở khâu chuẩn bị bột bánh. Bột làm từ gạo tẻ ngon, ngâm đủ 10 tiếng, có nơi ngâm đến 3 ngày tới khi bóp gạo tan thành bột, rồi đem bột ngâm với nước vôi trong hoặc nước tro. Ngày nay, các bước làm bánh cũng được rút gọn đi nhiều. Người ta sử dụng bột gạo xay sẵn ngâm với nước và nước vôi trong khoảng nửa tiếng rồi đem xay thành bột nước là sử dụng được

Những miếng bánh được cắt nhỏ đem chấm với nước tương sẽ tạo nên một hương vị quà quê truyền thống đậm nét văn hóa ẩm thực của người Hà Nội xưa. 

Bánh mì thanh long

Sau khi ra mắt bánh mì thanh long được người Sài Gòn yêu thích, xếp hàng dài chờ mua, "vua" bánh mì Kao Siêu Lực đã chia sẻ công thức làm bánh mì thanh long, hy vọng giúp giải cứu cho người nông dân trong thời dịch COVID - 19. 
Một số địa chỉ mua bánh mì thanh long:
  • Tiệm bánh ABC Bakery trên đường Nguyễn Trãi 
  • (quận 5, Tp. HCM)
  • Một số siêu thị BigC chi nhánh miền Bắc như BigC Thăng Long (Hà Nội), BigC Hạ Long (Quảng Ninh) và BigC Đà Nẵng.

Ông Kao Siêu Lực, chủ thương hiệu bánh kẹo Á Châu - ABC và cũng là Chủ tịch Hiệp hội Bánh mì quốc tế khu vực Đông Nam Á cho biết, ông quyết định công bố công thức bánh mì thanh long để tất cả mọi người đều có thể làm loại bánh mì này, giúp giải cứu nông dân đang phải bán đổ bán tháo thanh long vì không xuất khẩu được.

Những quả thanh long là nguyên liệu đặc biệt để chế biến thành món bánh mì mới lạ.

Ý nghĩa tâm linh của Duyệt Thị Đường

Có tầm vóc như “ngôi đền thiêng” của nền nghệ thuật cung đình nhà Nguyễn, mỗi đường nét kiến trúc của Duyệt Thị Đường đều ẩn chứa những ý nghĩa tâm linh sâu sắc, thể hiện sự tôn thờ cái đẹp của đấng quân vương.

Nằm bên trong Tử Cấm Thành Huế, Duyệt Thị Đường được xây dựng vào năm 1826, triều vua Minh Mạng, là nhà hát cổ nhất của ngành sân khấu Việt Nam. Công trình là nơi biểu diễn các vở tuồng cung đình dành cho vua, hoàng thân quốc thích, các quan khách thưởng thức.

Ý đồ phong thủy của Hiển Lâm Các ở Hoàng thành Huế

Theo quy định của triều đình nhà Nguyễn, không có bất kỳ công trình nào trong khu vực Hoàng thành được phép xây cao hơn Hiển Lâm Các. Vì sao lại như vậy?

Nằm ở phía Tây Nam Hoàng thành Huế, Hiển Lâm Các được xây dựng từ năm 1821 - 1822, là nơi thờ cúng các chiến công của các vua đời trước cũng như ghi công các công thần khai quốc

Khám phá trận Ngọc Hồi qua mô hình lịch sử ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.

Trận Ngọc Hồi 1789 giữa đại quân của hoàng đế Quang Trung với quân Thanh là một trong những trận đánh quan trọng nhất lịch sử Việt Nam. Cùng khám phá trận đánh này qua mô hình lịch sử của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam.

Trận Ngọc Hồi là trận tấn công then chốt của hướng chính binh Tây Sơn vào ngày 30/ 1/1789, do Hoàng đế Quang Trung chỉ huy trong cuộc chiến chống quân Thanh can thiệp ở phía Bắc Bộ. 

5 thg 4, 2020

Cổ vật trong tòa nhà hơn 120 năm tuổi

Tầng trệt của Bạch Dinh là nơi trưng bày những cổ vật từ con tàu Trung Hoa bị đắm trên vùng biển Côn Đảo cách đây 3 thế kỷ. 


Bạch Dinh xây dựng năm 1898, được người Pháp dùng làm nơi nghỉ dưỡng cho Toàn quyền Đông Dương. Công trình có tên gốc là Villa Blanche, dựa theo tên của con gái Toàn quyền Paul Doumer là bà Blanche Richel Doumer. Do màu sơn bên ngoài màu trắng nên người Việt quen gọi dinh thự này là Bạch Dinh.

Bạch Dinh tọa lạc trên một ngọn núi cao 27m so với mực nước biển. Tòa nhà có chiều cao 19m, rộng 15m, dài 28m, gồm ba tầng. Công trình xây bằng gạch, sơn màu trắng, mái lợp ngói đỏ mang nét kiến trúc của phong cách châu Âu thế kỷ 19. 

Cánh đồng muối đẹp như tranh

Diêm dân vùng Đông Hải trúng mùa vì nắng nóng, cùng nhau miệt mài lao động từ lúc bình minh trên những cánh đồng muối. 

Những ô ruộng muối nối tiếp, trải dài nhìn từ trên cao tại xã Long Điền. Nơi này thường được biết đến với tên gọi đồng muối Đông Hải, thuộc huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. Nhiếp ảnh gia Trần Minh Lương (Cần Thơ) vừa có chuyến sáng tác tại những ruộng muối ở Bạc Liêu vào trung tuần tháng 3/2020 chia sẻ bộ ảnh về những vẻ đẹp trong nghề làm muối. 

Chuối đập chấm nước cốt dừa

Với nhiều người, chuối đập chấm nước cốt dừa không đơn thuần là món ăn mà chứa đựng cả ký ức tuổi thơ đẹp đẽ. 

Cô bạn người miền Tây đăng các bức ảnh về món chuối đập nước cốt dừa làm tôi nhớ quay quắt về món ăn thời thơ ấu. Nói là thơ ấu vì từ nhỏ, tôi đã được mẹ làm cho món này để ăn. Lớn lên xa quê đi học đi làm và lập gia đình ở đất Sài Thành, hiếm lắm tôi mới lại được ăn chuối đập.

Chuối đập nước cốt dừa – Món ăn tuổi thơ của nhiều người miền Tây. Ảnh: Hoàng Mai. 

Giai thoại cung đình kỳ bí ở điện Hòn Chén

Trái với chuyện vua Minh Mạng, giai thoại về vua Đồng Khánh ở điện Hòn Chén lại được các sử gia nhà Nguyễn ghi lại khá rõ...

Nằm trên núi Ngọc Trản bên bờ sông Hương, điện Hòn Chén không chỉ là một đại danh thắng của Cố đô Huế mà còn là một địa danh gắn với những giai thoại kỳ lạ về hai vị vua nhà Nguyễn là Minh Mạng và Khải Định

Chuyện vua Gia Long xây lăng mộ cho mình

Theo quan niệm phong thủy của người xưa, chọn được nơi an táng tốt thì con cháu phát phúc dài lâu. Do vậy, vua Gia Long đã tìm kiếm nơi an nghỉ cuối cùng của mình từ khi còn ở trên ngai vàng.

Thiên Thọ Lăng (xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế) là tên gọi lăng vua Gia Long (1762-1820), vị vua sáng lập triều Nguyễn. Lịch sử hình thành khu lăng mộ này gắn với nhiều câu chuyện ly kỳ được lưu truyền trong sử sách

Chuyện tìm đất xây lăng vua Minh Mạng

Vì sự dùng dằng của mình, phải mất hai năm kể từ ngày từ giã cõi đời, vua Minh Mạng mới thực sự được an nghỉ ở một nơi đúng như ước nguyện lúc sinh thời...

Nằm trên núi Cẩm Khê ở cố đô Huế, lăng vua Minh Mạng hay Hiếu Lăng là một công trình gây ấn tượng mạnh với những tòa nhà tráng lệ kết hợp hài hòa với khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời. Trong chuyện tìm đất và xây cất lăng mộ này, quần thần nhà Nguyễn đã phải lao tâm khổ tứ khá nhiều...