12 thg 4, 2022

Tháp nước Hàng Đậu: Nơi gắn bó một thời…

Tháp nước Hàng Đậu hay dân dã quen gọi là Bốt Tròn Hàng Đậu thì ai ở Hà Nội cũng biết. Tháp nước Hàng Đậu được xây dựng năm 1894, là một trong những công trình kiến trúc cổ của Hà Nội.

Bốt Tròn Hàng Đậu trên bưu thiếp đầu thế kỷ XX.

Tháp nước Hàng Đậu có trước cả cầu Long Biên. Tháp nằm tại ngã 6 giao giữa các con phố: Hàng Than, Hàng Lược, Hàng Giấy, Hàng Đậu, Quán Thánh và Phan Đình Phùng.

Cùng song sinh với tháp nước Hàng Đậu là tháp nước Đồn Thuỷ. Tuy nhiên tháp nước Đồn Thuỷ ít được biết đến bởi lúc mới xây dựng, tháp nằm trong khu Đồn Thủy, là trại lính của viên chỉ huy Henri Rivière đóng quân khi quân Pháp chuẩn bị đánh chiếm thành Hà Nội. Còn hiện nay, tháp nằm trong khuôn viên Xí nghiệp kinh doanh nước sạch Hoàn Kiếm, khuất trong ngõ ở phố Đinh Công Tráng (gần Bệnh viện 108).

Lịch sử tháp nước Hàng Đậu gắn liền với cuộc xâm chiếm xứ thuộc địa của người Pháp. Trong thời kỳ đầu người Pháp mới sang xâm chiếm Việt Nam (những năm 1860) đến khi công cuộc bình định kết thúc (những năm 1880), điều kiện ăn ở của người Pháp, cả binh lính lẫn viên chức dân sự còn tạm bợ lắm.

Do là đội quân đi chiếm thuộc địa nên khi mới tới Việt Nam, lúc đầu người Pháp không mang theo thợ nề hay chủ thầu mà chỉ có vài kỹ sư quân sự và không có đội ngũ xây dựng và thiết bị kèm theo. Chính vì do thiếu nơi trú ngụ nên các toán quân Pháp phải tịch thu đền chùa của dân địa phương để ở và làm nơi đóng quân.

Tháp nước Hàng Đậu hôm nay.

Theo những gì được kể lại trong các bức thư của công chức, sỹ quan Pháp gửi về cho gia đình bên Pháp thì cho đến đầu thế kỷ XX, vẫn còn rất nhiều quân lính cùng các viên chức dân sự người Pháp tại Hà Nội và các vùng xung quanh sống trong những ngôi nhà dựng bằng tranh, tre nứa lá. Cũng có rất nhiều người Pháp sống trong những ngôi nhà ống nhiều gian. Cho đến tận năm 1932, ở Hà Nội, gần 35% người châu Âu vẫn phải sống trong những ngôi nhà như vậy.

Nơi ở còn tồi tàn như vậy thì nước uống cũng không khá hơn.

Cho đến những năm cuối thế kỷ XIX người Pháp ở Hà Nội vẫn dùng nước khoan thậm chí dùng nước ao hồ và ở trong các nhà tranh che nứa lá.

Những năm cuối thế kỷ XIX ấy sử sách còn ghi lại: Ở Hà Nội có những trận dịch lớn làm nhiều người cả dân bản xứ lẫn người Âu, chủ yếu là người Pháp mắc bệnh và tử vong. Thậm chí ngay cả Thống sứ Bắc Kỳ và An Nam khi ấy là Paul Bert, dù ông này là bác sỹ y khoa trước khi sang nhậm chức Thống sứ ở Việt Nam, cũng bị bệnh lỵ và chết ở Hà Nội tháng 11/1886.

Trước tình hình ấy, người Pháp thấy cần phải gấp rút xây dựng hệ thống nước sạch để cung cấp cho binh lính và công dân của họ. Và thế là song song với việc xây nhà máy nước Yên Phụ thì tháp nước Hàng Đậu cũng được xây cùng.

Vật liệu để xây dựng tháp nước Hàng Đậu là đá hộc. Nghe nói đá hộc xây tháp nước là đá do người Pháp phá thành Hà Nội mà ra. Đá hộc từ phá thành Hà Nội còn được dùng để xây đoạn cầu dẫn đường sắt của cầu Long Biên sau này chạy theo phố Phùng Hưng bây giờ.

Bức ảnh chụp tác giả đứng chờ xe buýt gần Bốt tròn Hàng Đậu hồi thập niên 80.

Tháp nước Hàng Đậu có hình trụ tròn, đường kính 19m, cao 3 tầng, khoảng 25m, mái có hình chóp nón, ở giữa là cột thu lôi. Ngày nay, tháp cơ bản vẫn giữ được hiện trạng như ban đầu. Chỉ khác là 17 cửa sổ ở phía dưới tầng 1 đã được bịt kín nhằm hạn chế người ta vứt rác bậy vào phía trong!

Bể nước của tháp có dung tích 1.250 m³, đặt trên đỉnh 8 bức tường đá có khoảng cách đều đặn như nan quạt. Hệ thống đường ống dẫn lên, xuống với những chiếc van bằng sắt. Nước từ nhà máy được đưa lên tháp theo đường ống dẫn. Rồi từ đây nước theo áp lực độ cao chuyển đi phân phối khắp nơi trong thành Hà Nội.

Tại tháp nước Hàng Đậu người Pháp cho làm các van nước điều phối khống chế việc cấp nước theo ý muốn. Có chuyện kể lại rằng, “bọn Tây” mở cửa van nhỏ cho các van chảy về phía cho người An Nam còn khu người “Tây” thì nước lúc nào cũng đầy đủ, vòi chẩy mạnh phe phé! Ấy là nghe các bậc tiền bối kể lại như thế, không biết thực hư thế nào…

Có thể nói tháp nước Hàng Đậu là công trình đầu tiên ghi dấu ấn sự thay đổi của bộ mặt mang dáng vẻ thành thị cho Hà Nội. Ngày ấy ngắm nhìn tháp nước và nghe ai nói câu “nhà có nước máy” thì có thể hiểu người Hà Nội khi đó “hãnh diện” biết chừng nào!

Có một điều rất lạ là trong hơn 120 năm tồn tại, khi mà ở Hà Nội xẩy ra bao biến cố do chiến tranh như các trận chiến 1946, rồi ném bom của không quân Hoa Kỳ… nhưng tháp nước Hàng Đậu không hề bị xây sát bởi một phát đạn hay mảnh bom nào!

Tới những năm 1960, chức năng chính của tháp nước mới ngừng khi nâng cấp nhà máy nước Yên Phụ và thay đổi công nghệ truyền dẫn nước sạch. Tuy nhiên, ống ngầm phía dưới tháp hiện vẫn nằm trong hệ thống tuyến ống chuyển dẫn nước của thành phố Hà Nội.

Cho đến hôm nay hệ thống đường ống dẫn nước và các van trong tháp vẫn nguyên vẹn dù biết bao lớp bụi thời gian đã phủ lên chúng. Số phận của tháp nước Hàng Đậu cũng thăng trầm “ba chìm bẩy nổi”. Thậm chí đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đã có những ý kiến muốn phá bỏ nó. Rồi người ta rào xung quanh tháp để lập ki-ốt bán hàng. Nhưng thật may là nó vẫn đứng vững và vượt qua những cái nhìn ấu trĩ, thiển cận…

Tôi “làm quen” với tháp nước Hàng Đậu với tên gọi dân dã “Bốt Tròn Hàng Đậu” lúc còn chưa đi học khi trong nhà có cái bưu thiếp từ thời Tây in hình cái “bốt” ấy. Thế rồi sau này Bốt Tròn Hàng Đậu thân thiết với tôi lắm.

40 năm trước, những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, sáng sáng tôi lại xách cặp ra “ngắm” Bốt Tròn! Nói là sáng sáng thì có lẽ chưa đúng lắm mà có thể là 3-4 buổi sáng mỗi tuần. Những ngày nào không muốn hoặc ngại lên tận phố Đội Cấn đón xe chuyên gia từ khách sạn La Thành ra để đi làm thì tôi ra Bốt Tròn đón xe buýt thuê chuyến của Cơ quan.

Ngôi nhà này có biển hiệu PIAGIO trên bao-lơn là trụ sở công an. Mái hiên phía mặt Hàng Đậu của ngôi nhà là nơi chúng tôi đứng đợi xe buýt đi làm hàng sáng. Bên kia đường là Bốt Tròn Hàng Đậu.

Trong lúc chờ xe đến thế nào cũng có một người đàn ông bé nhỏ, ăn mặc lam lũ, tay xách giỏ (thực ra là cái thùng gỗ mỏng) đựng ấm nước chè và cái điếu cầy đến mời. Hai hào là giá tiền trả cho chén nước và điếu thuốc lào. Có hôm ông này buộc vào quai giỏ ấm cái túi đựng mấy cái kẹo lạc. Hôm nào hứng chí có cả kẹo lạc thì “mất” những 5 hào. Tiêu chuẩn sáng thời ấy mà được như thế là khá “lịch sự”!

Xe buýt khi đó là xe Ba Đình. Xe Ba Đình lắp máy chạy dầu từ xe tải IFA của Đông Đức, tiếng nổ phành phạch điếc tai, khói đen phả mù mịt khi chạy như lò gạch di động, thân xe thưng tôn và chấn song sắt như chuồng gà đung đưa “nghiến răng ken két!

Lên xe đủ các mùi “ngào ngạt”: mùi chua mồ hôi dầu, mùi chua nồng ai đó ói mửa do say xe…và cả mùi do ông bà nào nào “yếu bụng” ăn gì đêm qua sáng nay lên xe vừa “xì” ra…

Con người thay đổi…

Vật đổi sao rời…

Nhưng hơn trăm năm qua Bốt Tròn Hàng Đậu vẫn sừng sững thi gan cùng tuế nguyệt…

Nguyễn Văn Ất

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét