Một buổi sáng cuối tháng 5-2021, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Thông (thế danh Phạm Thị Bạch Liên, sinh năm 1931, ngụ thị trấn An Châu, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang) đưa mắt nhìn lên trần nhà, nghe cơn mệt mỏi thấm dần vào từng tế bào cơ thể. Những đợt nằm viện ngày càng nhặt, thời gian mỗi đợt ngày càng dài, có khi cả tháng trời, để bà cảm nhận rõ nét tuổi già, lực kiệt.
Người chiến sĩ biệt động đầy sức sống năm xưa, giờ chỉ còn là quá khứ. Bao nắng mưa sương gió, khói lửa chiến tranh đã dừng lại đâu đó trong ký ức. Muốn quên, quên không đặng. Muốn nhớ, lại chẳng nhớ được nhiều!
Bà được xem là một nhân vật truyền kỳ, với nhiều thành tích lẫy lừng trong chiến tranh chống Mỹ. Hòa bình, sau khi hoàn tất mọi thủ tục, hồ sơ có liên quan, bà trở về với chuông mõ, công phu. Bà vẫn thiết tha với đời, nhưng bằng cách của riêng mình, lánh xa mọi hào nhoáng. Chính vì thế, nhiều năm trở lại đây, bà rất ít tiếp xúc với người lạ, đặc biệt là báo chí.
Có lần, một phóng viên của tờ báo trung ương đến gợi chuyện: “Sư bà kể chuyện cho con nghe, con viết bài báo cho sư bà nổi tiếng luôn!”. Bà “mời” phóng viên ấy về, từ chối trả lời phỏng vấn. Bà chưa đủ nổi tiếng sao? Vả lại, nếu muốn sống trong hào quang của quá khứ, bà đã tiếp tục ở lại TP. Hồ Chí Minh, đâu cần về tư thất nhỏ ở vùng ngoại ô An Giang này!
Bà như nhìn thấy chính mình lúc còn bé, là cô con gái thứ 9 trong nhà, lần lượt chứng kiến cha và mẹ phát tâm tu hành. Bà nhớ thời điểm cùng mẹ lên núi thăm cha: “Bảy tuổi tìm cha chốn núi non/ Trải lòng thương nhớ tóc răng mòn/ Sân tiên đảnh thượng cha hành đạo/ Thất bửu giá quang rõ nét son/ Mẹ bảo kính vấn an thân phụ/ Cha khẽ nhủ đời chẳng thường còn/ Lòng cảm nhận xin cắt tóc xanh/ Bạch Liên theo cha trọn đạo con” (thơ của Ni trưởng Thích Nữ Diệu Thông).
… Bảy tuổi, lắc lư chỏm vá trên đầu, bà có tên gọi mới là “chú tiểu Thông”, nào biết việc tu tập là gì, chỉ sớm tối tụng kinh, niệm Phật, ăn chay giống cha mẹ. Chú tiểu Thông biết cha lén đem lư đồng, chuông đồng trong chùa hiến cho cách mạng để đúc súng tự tạo, đúc đạn. Mẹ nấu cơm chảo lá sen, gói bánh tét ủng hộ bộ đội, du kích xã nhà. Chú tiểu Thông hiếu động, nhanh nhẹn, hàng ngày vai mang thùng bánh kẹp đi bán khắp thôn xã, đi vào đồn lính Pháp lân la vô tư. Nhờ nắm rõ mọi chi tiết về sinh hoạt, chiến đấu của lính đồn, chú “bỏ nhỏ” với bộ đội, góp phần đánh tan nát đồn lính. Nhưng chú chưa biết, đó là làm cách mạng, là yêu nước.
Dẫu vậy, những chi tiết ấy ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời bà. Năm lên 10, cha cho bà nhập học ni chúng chùa Phước Huệ (Sa Đéc, Đồng Tháp). Ở đây, bà được ni sư Diệu Hoa – một chiến sĩ cách mạng khoác áo cà sa – “nhờ” đem thuốc, thức ăn đi tiếp tế cho cán bộ. Bị lộ, cha gửi bà ra Huế, gặp hòa thượng Thích Trí Thủ (Viện trưởng Phật học đường) để tu học kinh luật. Năm ấy, miền Trung bị lũ lụt. Ni cô Diệu Thông theo đoàn xe của Ni viện Diệu Đức đi phát gạo, phát thuốc cho dân nghèo. Chiếc xe chạy thẳng vào... chiến khu, tiếp tế cho cách mạng.
Đường xa, lầy lội, lại thêm thấp thỏm đề phòng giặc phát hiện, chiếc xe bị lật cua. Mọi người bình an, trừ Ni cô Diệu Thông bị vỡ đầu, kẹt lại trong ca-bin. Tai nạn được giữ kín, nhưng vẫn bị lọt ra ngoài. Những người có liên quan (bao gồm Ni cô Diệu Thông) bị Ni viện “đuổi học”, giải vây khéo, xem như vụ việc đã được “xử lý” đến nơi đến chốn.
Nghe lời hòa thượng Trí Thủ, ni cô buông bỏ tiếc nuối về con đường học vấn, quay lại miền Nam. Nhưng bà không về Đồng Tháp (quê cha đất tổ), cũng không về An Giang (nơi cha tu hành), mà chọn dừng chân tại Sài Gòn. Chính ni cô cũng không ngờ, 2 từ “Sài Gòn” sẽ gắn chặt với cuộc đời bà mãi về sau.
… Chúng tôi đến thăm, nên bà vội buông chuyện cũ, trở về với thực tại. Dịch bệnh kéo dài, cộng với bà vắng nhà để đi điều trị bệnh, nên sau nhiều lần lỡ hẹn, chúng tôi mới gặp được bà. Vẫn là thói quen của nữ trinh sát ngày xưa, nay lại thêm nỗi niềm “tuổi cao mau quên”, bà nhờ chúng tôi ghi rõ họ tên, đơn vị công tác, ngày tháng gặp gỡ, để bà cất giữ, lưu niệm.
Mấy chục năm làm cách mạng, đã từng nhiều lần vào sinh ra tử, cuộc đời bà gắn liền với các mốc thời gian, như: bà tham gia cách mạng từ năm 1947, vai trò giao liên. Giai đoạn 1960 – 1969, bà tham gia công tác trinh sát quân báo, Quân khu Sài Gòn – Gia Định. Từ 1969 đến 1974, bà tham gia lực lượng Biệt động Sài Gòn – Gia Định, thuộc đơn vị F100.
Tháng 4 - 1983, sư cô Diệu Thông nhận quyết định về hưu với cấp bậc thượng sĩ, kết thúc gần 22 năm công tác liên tục trong quân đội. Tuy cấp bậc không cao, nhưng những gì bà đã đóng góp cho đất nước, cho quê hương đủ để khiến mọi người nể phục, xem bà như một người hùng!
Bộ phim của đạo diễn Long Vân kể về lực lượng biệt động Sài Gòn phát hành năm 1986, lập nhiều kỷ lục về số lượng người xem, gây sốt dư luận và là bệ phóng của loạt diễn viên từ vai chính đến vai phụ. Chiến công của các chiến sĩ biệt động Sài Gòn với những trận nổ súng, gài mìn, bắt cóc, trao đổi tù binh, những cuộc tấn công theo kiểu du kích chớp nhoáng khiến kẻ thù lên kế hoạch phản công mạnh mẽ. Nhân vật Tư Chung (Tư lệnh trưởng Biệt động Sài Gòn) phải đóng giả làm người yêu của Trần Thị Ngọc Mai (một chiến sĩ biệt động, cháu gái ông chủ hãng sơn Đông Á giàu có).
Tuy nhiên, Huyền Trang mới chính là người yêu thực sự của Tư Chung. Vì nhiệm vụ, Huyền Trang phải cải trang thành ni cô để che mắt kẻ thù. Hóa giải bao hiểu lầm, Tư Chung và Huyền Trang đã quyết tâm về lại bên nhau. Nhưng không may, Huyền Trang bị trúng đạn vào đầu và hy sinh. Ngọc Mai hoán đổi vị trí với Huyền Trang để Tư Chung tiếp tục hoạt động bí mật trong vỏ bọc an toàn.
Và rồi, chắp nối những ký ức ngắt quãng của mình, bà kể cho chúng tôi nghe tâm sự của nữ biệt động Huyền Trang, từ bước chân chênh vênh giữa đôi bờ đạo và đời, đến ngày bà nhận ra điều mình muốn làm, cần làm…
Bước vào cửa Phật, chú tiểu Thông ngày nào chưa biết “làm cách mạng” là gì. Lớn lên một chút, trở thành ni cô Diệu Thông, vẫn một lòng cầu lấy bình an cho nhân thế. Nhưng rồi, chẳng ai ngờ, ni cô trở thành nữ trinh sát Biệt động thành, cùng đồng đội mang đến nhiều nỗi khiếp sợ cho kẻ thù. Lần xuất gia đầu tiên kéo dài gần trọn cuộc đời bà, nhưng là lần xuất gia nhiều trăn trở nhất!
Lời dạy “vô ngã” của cha
Những năm chiến tranh loạn lạc, ni cô Diệu Thông thấy nhiều cảnh đầu rơi máu chảy, thấy đồng bào của mình bị giặc giày xéo, quê hương chìm ngập trong khổ đau. Người tu hành có thể nhắm mắt tụng kinh lễ Phật đằng sau cánh cửa chùa, nhưng đâu thể nhắm mắt làm ngơ trước nhân sinh đau khổ! Từ chú tiểu Thông đến khi trở thành ni cô Diệu Thông, tinh thần cách mạng thấm vào tâm khảm của bà, chầm chậm mà rõ nét trong từng suy nghĩ, hành động.
Lời dạy “vô ngã” của cha
Những năm chiến tranh loạn lạc, ni cô Diệu Thông thấy nhiều cảnh đầu rơi máu chảy, thấy đồng bào của mình bị giặc giày xéo, quê hương chìm ngập trong khổ đau. Người tu hành có thể nhắm mắt tụng kinh lễ Phật đằng sau cánh cửa chùa, nhưng đâu thể nhắm mắt làm ngơ trước nhân sinh đau khổ! Từ chú tiểu Thông đến khi trở thành ni cô Diệu Thông, tinh thần cách mạng thấm vào tâm khảm của bà, chầm chậm mà rõ nét trong từng suy nghĩ, hành động.
Năm 1959, ni cô Diệu Thông mang theo lời cha dạy đến Sài Gòn - mảnh đất xa lạ nhưng mở ra nhiều nhận thức, hành động mới cho bà. Ở Sài Gòn, bà biết nhiều kẻ khoác áo tu hành, nhưng uống rượu, ăn thịt, ngồi bàn bạc với Mỹ, Ngụy chuyện giết đồng bào ta. Nhiều nhà sư yêu nước lấy cái chết để bày tỏ thái độ với địch, với thời cuộc chiến tranh. Còn bà, bà phải làm gì? Chỉ có một cách: đi diệt trừ “quỷ ma”, trở thành chiến sĩ cách mạng, theo cách của riêng bà.
Bên trong cửa chùa
Giữa trung tâm Sài Gòn, tại số 82/B đường Trần Quốc Toản – Chợ Lớn, quận 5 (giờ là đường 3/2, quận 11), có ngôi chùa nhỏ mang tên Bổn Nguyện. Chùa lợp lá, cất kiểu nhà sàn, bên trong có xưởng nhang “Mạng Đà trầm hương”, nước chấm hiệu “Bồ Đề”. Trụ trì chùa trước đó là hòa thượng Giác Quang, sau là đại đức Thích Viên Hảo, tức Phạm Hữu Trí, một người cùng chí hướng cách mạng.
Sau cánh cổng chùa Bổn Nguyện là nơi dung thân cho những thanh niên trốn quân dịch, là nơi lui tới của nhiều “phật tử” như chị Mười. Ni cô Diệu Thông trở thành giao liên của cách mạng, hàng ngày mang thư mật trong người, “bỏ nhỏ” rủ phật tử xuống đường; đánh máy, in truyền đơn rải ngoài phố.
“Khi thấy mình đã dấn sâu vào những việc làm trên, chùa Bổn Nguyện bị bọn công an mật vụ bắt đầu theo dõi, Diệu Thông mới sực giựt mình! Diệu Thông muốn bàn với Viên Hảo hạn chế bớt hoạt động. Chứ như thế này, chùa Bổn Nguyện gần như công khai là các trụ sở của cách mạng trong lòng địch! Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng Diệu Thông chỉ vấn đáp với riêng mình. Cha đã từng dặn đi dặn lại: thuyết của Phật là “vô ngã”. Bây giờ hòa thượng Giác Quang đã được Phật giáo thống nhất Long Xuyên bầu làm Chủ tịch Ủy ban Hiến chương Phật giáo. Cho nên, càng phải làm sao cho xứng đáng con của cha. Chớ có lý nào trước nguy hiểm mà mình “chấp ngã”! Còn làm cách mạng? Diệu Thông nghĩ nôm na: cách mạng tức là xa cái mạng của mình, thì cũng như “vô ngã”. Như các chị, các chị có sợ cho bản thân mình đâu!” (Trích tác phẩm “Tiếng chuông chùa ngân nga” của Thanh Giang).
“Vô ngã” không có nghĩa là lặng thinh trước cái xấu, cái ác! Khi ni cô Diệu Thông vừa tìm thấy được chút ánh sáng trong giằng xé tư tưởng, bỗng dưng chùa Bổn Nguyện chìm trong biển lửa. Địch đốt cháy vì biết chùa có liên quan, bao che cho các tổ chức cách mạng, đấu tranh chính trị. “Chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn, gần như bế tắc. Nhưng không ai muốn bỏ cuộc, động viên nhau ráng làm nước tương, se nhang, làm xà bông đi bán khắp nơi để che giấu việc chuyển tài liệu. Được bao nhiêu tiền, mọi người gom góp lại, phục vụ cho hoạt động cách mạng” – ni cô Diệu Thông nhớ lại.
Ngày ngày, lúc rảnh rỗi, chị em lại thay phiên nhau đi trinh sát mục tiêu, tải vũ khí về chùa. Phương tiện vận chuyển là xe Honda, với chiếc yên được rút hết nệm, thay bằng thuốc nổ dẻo C4. Khi làm tương, giữa các nia phơi xếp chồng lên nhau, họ giấu những khẩu súng nhỏ, dụng cụ đo tọa độ của súng cối.
Ngày phá giới đầu tiên
Năm 1969, kẻ thù huênh hoang rằng, Sài Gòn không còn dấu vết của Việt Cộng. Vì vậy, lực lượng biệt động nhận lệnh “Phải gây tiếng nổ thường xuyên trong địa bàn hoạt động của tổ”. Thầy Viên Hảo mời ni cô Diệu Thông đến, mở lời: “Có một nhiệm vụ đặc biệt trên vừa giao cho chúng ta. Sư cô có dám làm không?”.
Không cần suy nghĩ thêm, ni sư Diệu Thông xin đi theo chị Tám A (Nguyễn Thị Rí, một chiến sĩ Biệt động thành), tham dự trận đánh vào hội trường Thượng viện Sài Gòn, vào đúng thời điểm diễn ra một hội nghị chính trị quan trọng của địch. Ni sư cất công đi mua 3 chiếc áo đủ màu, mang phong cách của gái làng chơi. Mấy cô gái trẻ xuất phát, người thì trò chuyện phân tán chú ý của địch, người thì lẳng lặng “hành sự”.
Kể từ đó, nhiều trận đánh “xuất quỷ nhập thần” của Biệt động Sài Gòn – luôn có bóng dáng lam y của ni cô Diệu Thông – liên tục làm cho địch hoang mang, cảnh giác. Đó là trận đánh Trạm biến điện cao thế góc trường đua Phú Thọ tháng 5-1969, trận đánh cư xá hạ sĩ quan độc thân (thành Poloma) tháng 7-1969… Bị địch phát hiện, chùa Tam Bảo bị san bằng, đồng đội của ni cô Diệu Thông người bị bắt tù đày (trong đó có cả thầy Viên Hảo), người chạy thoát kịp thời…
Một buổi sáng tháng 6-2021, ni trưởng Thích Nữ Diệu Thông ngồi ngắm hồ sen nhỏ trước tư thất, đôi tay – từng bị giặc bẻ gãy, đau chết đi sống lại - không ngừng lần tràng hạt, giấu sự mệt mỏi vì tuổi tác đằng sau vẻ điềm tĩnh. “Tên Bạch Liên của sư bà có ý nghĩa gì?” – bà Lê Thị Bé Ba (sinh năm 1953, chúng tôi thường gọi là cô Ba) cất tiếng hỏi. “Tôi quý cái tên này lắm. Cha mẹ đặt như thế, tôi mong tôi lớn lên thực hiện đúng tâm nguyện của họ, tấm lòng trong sáng như hoa sen trắng, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào” – ni trưởng mỉm cười.
“Ân nước đã xong quy vĩnh cửu”
Năm 1976, lực lượng Biệt động Sài Gòn vinh dự được Đảng và nhà nước tuyên dương Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tặng 16 chữ vàng: “Đoàn kết một lòng - Mưu trí vô song - Dũng cảm tuyệt vời - Trung kiên bất khuất”.
Là một thành viên trong lực lượng, khỏi phải nói, bà hạnh phúc biết bao nhiêu! Bản thân bà được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, cùng hàng loạt khen thưởng của Trung ương, địa phương, sở, ngành… Năm 2021, Viện Khoa học nghiên cứu nhân tài – nhân lực (Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) tặng danh hiệu “Hiền tài nước Việt” cho bà về thành tích cống hiến lớn lao trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hòa bình, ni cô Diệu Thông tiếp tục ở lại công tác tại Phòng Tham mưu Bộ Tư lệnh TP. Hồ Chí Minh và Ban liên lạc Phật giáo yêu nước cho đến ngày nghỉ hưu. Năm 1982, ni cô Diệu Thông để tóc trở về đời. Người phụ nữ vóc dáng nhỏ bé, mái tóc phi-dê tất bật với nhiều hoạt động công tác, họp mặt… nối tiếp nhau. Nếu không giới thiệu trước, đâu ai nghĩ rằng bà từng là một ni cô. Biết chuyện đời và chiến công của bà, mọi người đều kính ngưỡng. Có đợt, bà được mời đi tham quan Liên Xô cả tháng. Một chuyên gia người Liên Xô mến mộ, chụp rất nhiều hình tặng bà, gọi bà là “Chiến sĩ đặc biệt”.
Trong “Lời cuối cùng” viết năm 2010, bà nhủ lòng: “Ân nước đã xong quy vĩnh cửu/ Thành thơi cảnh Phật rèn xá lợi/ Chẳng còn vướng bận nợ phiền ưu/ Vui vầy đạo bạn cùng tiên phật/ Trọn kiếp đạo đời giới luật nghiêm”. Bà tự khái quát “Đời Diệu Thông” bằng mấy câu thơ: “Tuổi thơ chú tiểu quét lá đa/ Nửa xuân trước đánh đuổi giặc ma/ Danh lưu sử nữ Biệt động thành/ Nửa xuân giữa lăn lộn trầm kha/ Lưng còm tỉnh mộng tâm linh hiện/ Chọn ngày giỗ mẹ quyết xuất gia/ Bảo trì ngôi Tam bảo chơn Tam Bảo/ Xuân rốt sau là một sư bà”.
Trước đó, bà rời căn nhà Tình nghĩa ở quận 12 (TP. Hồ Chí Minh, do thầy trò Trường bán công Nguyễn Thị Diệu) xây tặng. Bà rời bỏ đứa con nuôi không đủ hiếu thảo với mình. Bà lần lượt nếm trải cảm giác sinh ly tử biệt với những người anh em thân thuộc trong gia đình. Cuộc đời quá dài, nên bà dặn lòng “Trở về”: “Hai mươi năm lẻ dẹp quân thù/ Hàng tám quay về thuở nhỏ tu/ Lặn lội bao năm danh với lợi/ Tâm linh đánh thức kiếp phù du/ Đêm ngày mật niệm cho dừng nghiệp/ Rực rỡ sen thơm diệt tối mù”.
“Tu rửa ngày đêm gội rửa tâm linh”
Khi chắp nối lại đường tu, ngoài lúc sinh hoạt tôn giáo, bà dành phần lớn nỗi nhớ ray rứt về những đồng đội đã hy sinh anh dũng, chưa được công nhận anh hùng, như Tám A – Nguyễn Thị Rí. Năm 1969, bà cùng Tám A và Tám Ngoan xuất quân đánh xe buýt chở sĩ quan hải quân độc thân ở cư xá trên đường Nguyễn Văn Thoại. Chiếc xe 52 chỗ ngồi, thường ngày đưa đón lính Mỹ đến bến Bạch Đằng làm việc. Tám A lái Honda, Ngoan ngồi sau ôm trái nổ, bà trinh sát dẫn trái, đến điểm, dự kiến bọn chúng lên xe đủ sẽ ném trái. Kíp sắp nổ mà xe chưa đủ người, Tám A tràn đầy uất hận ra ám hiệu từ giã bà, lao thẳng vào xe buýt.
“Tiếng nổ rung chuyển một góc thành phố. Tôi quay xe lướt qua trinh sát, thấy xe buýt bị vỡ, lính Mỹ bị thương, chết ngổn ngang. Tám A và Ngoan hy sinh anh dũng, thi thể chẳng nguyên vẹn. Tôi gượng chạy vội về chùa rồi ngất xỉu. Nghe tiếng khóc của bé Hương (8 tuổi, con Tám A) hỏi mẹ đâu, tôi tỉnh dậy, ôm bé vào lòng nghẹn ngào, không nói được câu nào. Cha mẹ của bé đã lần lượt hy sinh, xót xa, đau đớn vô cùng. Tôi tác chiến trong nội thành rất nhiều trận, nhưng trận này khắc sâu trong tim” – bà run rẩy kể lại.
Và bà còn có một chút lòng riêng. Dù được động viên, khen thưởng, vinh danh vì những đóng góp trong chiến tranh, nhưng với bà, ở một góc độ khác, bà đã sát sanh. Bà muốn dùng thời gian còn lại trong cuộc đời tụng kinh niệm Phật để hóa giải nợ trần đã nhuốm vào đôi bàn tay. Như một phật tử đã viết tặng bà: “Tu rửa ngày đêm gội rửa tâm linh/ Sen trắng vẫn thơm trong môi trường ô nhiễm/ Người xuất gia vẫn một lòng tin Đảng/Yêu đồng bào nên chẳng tiếc chi thân/ Con đường đã chọn chẳng chút phân vân/ Lặng lẽ làm điều trái tim mách bảo”.
Trong tư thất của bà hiện giờ, có tiếng chim hót vui tươi sáng sớm, có tiếng chuông chùa trầm ấm ban trưa, có tiếng gõ mõ tụng kinh đều đặn chiều tối. Một con chó, hai con mèo từ đâu đến ở, quấn quýt bên cạnh, cũng dần già đi theo năm tháng cùng bà. Đặc biệt, bà sống trong sự chăm sóc tận tình của cô Ba, một phật tử hữu duyên gặp gỡ.
“Tôi từng là giao liên trong kháng chiến chống Mỹ, công tác ở xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Cuộc sống riêng tư nhiều vướng mắc, tôi tìm đến các chùa để làm công quả, tá túc. Từng nghe danh sư bà, nhưng tôi không có dịp gặp gỡ. Năm 2006, sư bà về Sa Đéc, không may trở bệnh, phải nhập viện điều trị. Tôi đi thăm, thấy sư bà đơn chiếc, không ai chăm sóc, nên rất thương cảm.
Mãi 7 năm sau, tôi gặp lại sư bà lần thứ 2. Ngày 25-1-2013, tôi quyết định về An Giang, chăm sóc sư bà, xem bà là người mẹ thứ 2 của mình. Sư bà thường nói đùa, tôi là “Việt cộng nuôi Việt cộng”. Hơn 90 tuổi rồi, sư bà đau bệnh nhiều, tính tình nóng nảy hơn trước, con cháu không ở gần, một mình tôi đi chợ, nấu nướng, lo từng miếng ăn giấc ngủ cho bà, phụ bà tiếp khách xa gần đến thăm. Trải qua nhiều bể dâu, tôi sống với sư bà bằng tình đồng chí, tình đạo pháp, tình người…” – cô Ba tâm sự.
“Tôi từng là giao liên trong kháng chiến chống Mỹ, công tác ở xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp. Cuộc sống riêng tư nhiều vướng mắc, tôi tìm đến các chùa để làm công quả, tá túc. Từng nghe danh sư bà, nhưng tôi không có dịp gặp gỡ. Năm 2006, sư bà về Sa Đéc, không may trở bệnh, phải nhập viện điều trị. Tôi đi thăm, thấy sư bà đơn chiếc, không ai chăm sóc, nên rất thương cảm.
Mãi 7 năm sau, tôi gặp lại sư bà lần thứ 2. Ngày 25-1-2013, tôi quyết định về An Giang, chăm sóc sư bà, xem bà là người mẹ thứ 2 của mình. Sư bà thường nói đùa, tôi là “Việt cộng nuôi Việt cộng”. Hơn 90 tuổi rồi, sư bà đau bệnh nhiều, tính tình nóng nảy hơn trước, con cháu không ở gần, một mình tôi đi chợ, nấu nướng, lo từng miếng ăn giấc ngủ cho bà, phụ bà tiếp khách xa gần đến thăm. Trải qua nhiều bể dâu, tôi sống với sư bà bằng tình đồng chí, tình đạo pháp, tình người…” – cô Ba tâm sự.
Sau ngần ấy năm chiến đấu và tu hành, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Thông trút cạn những gì mình có cho cách mạng: ngôi chùa Tam Bảo ở TP. Hồ Chí Minh, 2 chiếc xe gắn máy.
“Chiến sĩ Biệt động xưa xếp trang sử hào hùng/ Nhưng chẳng ai quên ngày ấy có Huyền Trang/ Diệu Thông hôm nay vẫn một lòng yêu Đảng”. Quả thật, cả đời mình, Ni trưởng Diệu Thông chất chứa tấm lòng yêu Đảng, kính Bác Hồ, quý dân, chưa bao giờ phai nhạt.
Bà có một quyển thơ, mang tên “Những vần thơ cuối cùng của Diệu Thông”, bày tỏ: “Thật là toàn giác độ chúng mê/ Bác là Bồ Tát khổ muôn bề/ Xả thân cứu nước bao gian khổ/ Non nước thanh bình Bác ở đâu/ Chỉ thờ hình tượng và tâm tưởng/ Toàn Đảng toàn dân đến thôn quê/ Tôn thờ kỷ cương Đảng Bác dạy/ Thật là từ bi Bác cứu dân” - (Thờ Bác ở đâu). “Thấm nhuần ơn sâu Bác, Đảng dạy/ Cứu dân cứu nước tròn tuổi xuân” – (Đời tu hành)…
Một lần đến thăm Ni trưởng Thích nữ Diệu Thông, ông Phùng Văn Sang (Phó Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin tỉnh An Giang) bày tỏ: “Sư bà là một nhân vật huyền thoại, từng tham gia đội Biệt động Sài Gòn, đóng góp rất lớn cho sự nghiệp cách mạng, công cuộc giải phóng đất nước. Khi trở về đời thường, sư bà luôn thể hiện khí chất, cái tâm trong sáng của người cách mạng, đặc biệt quan tâm, theo dõi sự phát triển của xã hội, của lực lượng vũ trang trong cả nước nói chung và tỉnh An Giang nói riêng. Đối với Hội Cựu chiến binh, Hội Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin, sư bà thường xuyên đóng góp, kêu gọi nhà hảo tâm khắp nơi chung tay gửi tặng của ít lòng nhiều đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, nạn nhân chất độc da cam/Dioxin… Dẫu tuổi cao, sức yếu, sư bà vẫn nhiệt tình lo cho xã hội. Đây là nghĩa cử rất cao đẹp”.
Bài, ảnh: GIA KHÁNH
Thiết kế hình ảnh: TRUNG HIẾU
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét