1. Nơi an nghỉ của cha con võ tướng Nguyễn Tri Phương
là một gò đất nằm giữa cánh đồng lúa thuộc địa phận làng Chí Long, xã
Phong Chương, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Trong hai ngôi mộ
ở đây, ngôi mộ ở ngoài là của Nguyễn Lâm, con thứ hai của danh tướng
Nguyễn Tri Phương, người được phong Phò mã Đô úy thời vua Tự Đức.
Mộ danh tướng Nguyễn Tri Phương nằm phía sau, chếch về bên trái so với
mộ người con trai.
Mộ của ông được xây theo cách thức phổ biến của mộ các bậc công thần
thời phong kiến, với vòng tường thấp bao quanh, hai bên trụ cổng có cặp
nghê. Mộ phần được xây bằng hợp chất ô dước vôi, cát, mật, có hình dáng
một tòa đình với hai tầng mái
Dưới thời nhà Nguyễn, Nguyễn Tri Phương là Tổng chỉ huy quân đội triều
đình chống lại quân Pháp ở các mặt trận Đà Nẵng 1858, Gia Định năm 1861
và Hà Nội 1873. Ngày 20/11/1873, trong trận bảo vệ thành Hà Nội, Phò mã
Nguyễn Lâm tử trận, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương và bị địch bắt.
Khước từ mọi dụ dỗ của kẻ thù, ông đã tuyệt thực cho đến chết.
2. Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) là vị tướng có công lớn dưới thời chúa
Nguyễn trong việc đánh giặc, mở cõi, định hình lãnh thổ Việt Nam. Sau
khi mất ông được an táng tại Cù Lao Phố, Đồng Nai. Năm 1802, di hài ông
được cải táng về quê nhà ở xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng
Bình
Khu lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh được trùng tu lớn vào năm 2013. Sau
quá trình trùng tu, lăng mộ vị danh tướng thời chúa Nguyễn mang một diện
mạo mới với nhiều hạng mục được xây dựng bằng đá bề thế
Theo sử sách, lúc mới ngoài 20 tuổi, Nguyễn Hữu Cảnh đã lập được nhiều
công trạng trên chiến trường khi phò tá chúa Nguyễn Phúc Chu. Trong suốt
sự nghiệp của mình, ông được xem là vị tướng mở cõi Nam Bộ với việc xác
lập chủ quyền cho người Việt tại vùng đất Đồng Nai, Gia Định vào năm
1698.
3. Cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 10km về phía Tây Nam, nghĩa trang xã
Hòa Thọ, huyện Hòa Vang có một khu lăng mộ quan trọng gắn liền với lịch
sử của thành phố biển. Đó là lăng mộ Ông Ích Khiêm, nhà thơ và võ tướng tài ba dưới thời nhà Nguyễn
Theo sử sách, Ông Ích Khiêm thi đậu cử nhân năm 1847 và làm quan dưới
triều vua Tự Đức. Nổi tiếng là người thông minh, chính trực, là một vị
tướng khẳng khái và mưu lược, ông có công trong việc cầm quân bảo vệ Đà
Nẵng khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, xâm lược nước ta vào
ngày 01/9/1858
Sau khi trải qua nhiều sóng gió trên quan trường, Ông Ích Khiêm mất năm
1884 tại Bình Thuận. Con trai ông là Ông Ích Thiện đã đưa thi hài ông về
quê và mai táng tại làng Phong Lệ. Đến năm 1938, thi hài ông được cải
táng về vị trí hiện tại.
4. Nằm dưới chân núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, lăng mộ
danh tướng Thoại Ngọc Hầu (1761 - 1829) - người có công rất lớn trong
công cuộc gìn giữ và khai phá vùng đất phía Tây Nam của Tổ quốc - là một
công trình kiến trúc cổ độc đáo của Nam Bộ. Khu lăng mộ được Thoại Ngọc
Hầu cho xây trước khi ông qua đời
Đây là một khối kiến trúc to lớn nhưng hài hòa. Muốn lên lăng, phải qua
chín bậc đá ong dài trên trăm mét, rồi mới đến sân. Tiếp đến là vòng
thành và hai cổng vào lăng hình bán nguyệt. Qua khỏi cổng là ba phần mộ
nằm giữa vuông lăng. Mộ phần Thoại Ngọc Hầu nằm giữa, hai bên là mộ bà
chính thất Châu Thị Tế và mộ bà thứ thất Trương Thị Miệt.
Trong khuôn viên lăng Thoại Ngọc Hầu còn có hai khu đất rộng, cũng có
vòng thành ngăn xung quanh. Ở đây có trên 50 ngôi mộ xây bằng hợp chất ô
dước, có mộ xây hình voi phục, có mộ xây hình bầu dài hoặc vuông vắn.
Những ngôi mộ này đều vô danh. Đa số là hài cốt của những người đã bỏ
mình trong lúc đào kênh Vĩnh Tế được ông Thoại cho qui tập về
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét