Ngôi đền cổ cách TP Thanh Hoá gần 18 km về phía bắc và cách Hà Nội khoảng 140 km về hướng nam.
Sau nhiều lần bị tàn phá, tới thời vua Minh Mạng, ngôi đền được di chuyển về vị trí hiện tại. Cuối thế kỷ 18, đền bắt đầu có diện mạo như ngày nay. Đền được xây dựng theo kiến trúc nội công ngoại quốc với ba toà nhà chính gồm tiền đường, trung đường và hậu cung làm trung tâm.
Nghi môn nội được thiết kế kiểu tam quan có ba lối đi vào trong. Hai bên cửa chính được đặt hai bức tượng nghê chầu cổ bằng đá.
Tiền đường là một trong ba điện thờ chính, được cấu trúc ba gian hai chái. Trung đường được cấu trúc năm gian, hai tầng mái cong.
Hậu cung là công trình có địa thế cao nhất, dựa lưng vững chãi vào núi Gai. Đây là công trình kiến trúc gỗ dài 2,45m, rộng 6,9m và cũng có hai tầng mái cong - kiểu truyền thống như các ngôi đình, chùa cổ khác ở Việt Nam.
Bậc thềm dẫn lên toà hậu cung được tạc dựng cặp rồng bằng đá xanh nguyên khối dáng vẻ uy nghi.
Cách đền thờ Bà Triệu khoảng 500 m về phía Tây là khu lăng mộ của bà Triệu và mộ ba ông tướng họ Lý. Khu lăng mộ nằm trên đỉnh núi Tùng - một ngọn núi vừa có đá vôi lẫn đồi đất thuộc dãy Tam Đa, chạy theo hướng Tây Bắc.
Lăng mộ được bao phong thành mộ nổi, có tường hoa vây quanh theo đồ án hình vuông.
Xưa kia, khu lăng mộ được xây bằng gạch. Đến năm 2005, lăng mộ Bà Triệu được trùng tu trên cơ sở giữ nguyên hình dáng kiến trúc nhưng thay đổi từ vật liệu gạch trát vữa vôi sang đá nguyên khối.
Để đến được khu lăng mộ Bà Triệu trên đỉnh núi Tùng, du khách phải băng qua hơn 300 bậc thềm đá với độ dốc lớn.
Dưới chân núi Tùng là phần mộ của ba ông tướng họ Lý gồm Lý Công Thành, Lý Công Hoằng và Lý Công Mỹ. Tương truyền, họ là những người con ưu tú của làng Bồ Điền, từng sát cánh cùng Bà Triệu đánh giặc năm xưa.
Quần thể di tích đền Bà Triệu còn có một số di tích phụ cận khác như miếu Bàn Thề, đền Đệ Tứ và đình Phú Điền (ảnh) - nơi Bà Triệu được suy tôn là thành hoàng làng.
Vốn giỏi võ nghệ, năm 20 tuổi, Triệu Thị Trinh cùng anh trai chiêu mộ hàng nghìn tráng sĩ ở núi Nưa dấy binh khởi nghĩa chống quân Đông Ngô xâm lược. Cuộc khởi nghĩa được nhân dân khắp nơi hưởng ứng, sức mạnh của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh. Đúng lúc này, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Các nghĩa binh thấy Triệu Thị Trinh làm tướng can đảm nên tôn làm chủ tướng.
Quân Ngô phải cử đội quân hùng mạnh cùng nhiều viên tướng giàu kinh nghiệm trận mạc sang đàn áp nghĩa quân. Do lực lượng chênh lệch cùng nhiều mưu mô thâm độc khiến nghĩa quân của nữ tướng xứ Thanh thất bại. Bà Triệu tuẫn tiết tại núi Tùng, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc vào ngày 22/2, năm Mậu Thìn 248.
Để tưởng niệm công lao của Bà Triệu, nhân dân địa phương đã lập đền thờ, quanh năm hương khói thờ phụng bà.
Theo Trung tâm Nghiên cứu lịch sử và bảo tồn di sản Thanh Hóa, mỗi năm có hàng chục nghìn du khách đến tham quan, lễ viếng tại di tích Bà Triệu. Đông nhất thường vào dịp lễ hội được tổ chức từ ngày 21 đến 23/2 âm lịch hằng năm.
Lê Hoàng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét