10 thg 4, 2013

Lễ tế đàn Xã Tắc năm 2013

Tối 2/4, tại đàn Xã Tắc, phường Thuận Hòa, thành phố Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tái hiện lễ tế Xã Tắc 2013.

Lễ tế được thực hiện gồm 2 phần chính: phần tâm linh thực sự do đoàn chánh tế của Thường vụ tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế dâng hương ở án nghênh thần, dâng rượu, dâng sớ tại đàn Xã Tắc; phần sân khấu hóa với việc tái hiện một lễ tế Xã Tắc của triều đại nhà Nguyễn với không gian diễn xướng của loại hình nghệ thuật Nhã nhạc, múa cung đình, văn hóa nghi lễ và phục trang truyền thống cung đình Huế xưa… 

Quang cảnh lễ tế ở đàn Xã Tắc 


Trái sấu

Tô canh sấu cá nheo, chỉ nhìn cũng giải được phần nào oi nhiệt mùa hè. Ảnh: Cúc Tần 

Có ở Hà Nội vào những ngày hè mới biết nó nóng bức ra sao. Đài báo nhiệt độ chừng 34 - 35 độ C, giống như trong Nam, nhưng khí trời ngoài đó hừng hực như chảo lửa. Mồ hôi lúc nào cũng tươm đầy các lỗ chân lông dù thành phố nầy phủ nhiều bóng mát cây xanh. Hà Nội có nhiều con phố rợp bóng cây sấu. Trái sấu tròn nhỏ cỡ ngón chân cái, lủng lẳng trên cành. 

Sấu hái về, người ta chế biến thành vài món ăn thú vị. Giải quyết ngay tức thời cơn khát không gì bằng ly nước sấu bán trong những quán cóc ven đường. Cái thứ nước chua chua ngọt ngọt nầy, càng uống càng mê. Trái sấu còn được các nhà sản xuất chế biến thành nhiều thứ ô mai: chua giòn, chua cay, chua mặn, chua ngọt, chua gừng... loại nào cũng được các cô nàng tuổi mới lớn “hâm mộ”.


Bánh đa gấc Kẻ Sặt

Phên nứa phơi bánh đa ở làng Sặt, Hải Dương. Ảnh: Hạnh Thư 

Những chiếc bánh đa có màu đỏ của gấc, vị bùi của lạc, vừng, dừa và mùi thơm của gừng tươi; bánh được cuộn tròn thành từng cuộn thay vì để từng tấm như các loại bánh đa thông thường, ấy là bánh đa gấc Kẻ Sặt (xã Tráng Liệt, huyện Bình Giang, Hải Dương). Loại bánh đa được làm ở làng Sặt là loại bánh đa ngọt. 

Ở Hải Dương hầu như ở huyện nào cũng có người làm bánh đa nhưng chỉ có bánh đa Kẻ Sặt mới nổi tiếng trở thành đặc sản của Hải Dương tương tự như bánh gai, bánh đậu xanh... Nguyên liệu làm bánh gồm có gạo, đường, có thêm vừng, lạc và dừa thái mỏng và thêm hương vị của gừng tươi. Ngày nay còn có thêm cả gấc để tạo màu đỏ.


Căn hầm bí mật bên trong Hoàng thành Thăng Long

Hầm chỉ huy tác chiến nằm bên dưới tòa nhà Cục Tác chiến trong khuôn viên Hoàng thành Thăng Long. Hầm đã được Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long tu bổ, chỉnh trang và sưu tầm nhiều hiện vật, tư liệu để trưng bày phục vụ khách tham quan sau nhiều năm bị đóng cửa.

Hầm được xây dựng từ năm 1964 đến năm 1965, kết cấu nửa nổi nửa chìm bằng bê tông nguyên khối với khối lượng khoảng 1000 mét khối; nóc nhô lên khỏi mặt đất 1,4m; tường dày 40cm. Được đánh giá là hiện đại nhất lúc bấy giờ, hầm chỉ huy tác chiến có hệ thống lọc bụi, chống nhiễu, hệ thống điều hòa và có khả năng chống được bom nguyên tử. Với diện tích 65 mét vuông, căn hầm chia làm 3 phòng: phòng giao ban tác chiến, phòng trực ban tác chiến và phòng thông hơi lọc độc lọc sạch.

Nóc hầm nhô lên khỏi mặt đất 1,5 mét.

9 thg 4, 2013

Khu di tích Đặng Thùy Trâm

Chúng tôi đến huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, vùng đất mà cách đây gần nửa thế kỷ, Anh hùng Liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm (1942-1970) đã sống, chiến đấu, làm việc và ngã xuống khi còn rất trẻ, mới chưa đầy 28 tuổi đời, 3 năm tuổi nghề và 2 năm tuổi Đảng. Người dân địa phương đã an táng chị ngay trên mãnh đất mà chị đã hi sinh và được gia đình cải táng về Nghĩa trang Liệt sĩ xã Xuân Phương, huyện Từ Liêm, Thủ đô Hà Nội.

Khu di tích Đặng Thùy Trâm nằm trên địa bàn huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, nơi đã lưu lại những dấu tích anh hùng của Liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm, đại diện cho lòng yêu nước, sức sống mãnh liệt của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Khu di tích Đặng Thùy Trâm bao gồm các hạng mục chính: Bệnh xá Đặng Thuỳ Trâm ở xã Phổ Cường, huyện Đức Phổ; Trạm phẫu thuật tiền phương ở núi Bộng Dầu, thôn Quy Thiện, xã Phổ Khánh; Khu vực hồ Liệt Sơn, xã Phổ Hòa; Bệnh xá Đức Phổ tại đồi Gò Chày thôn Đồng Răm 1, xã Ba Khâm…



Chân dung nữ bác sĩ trẻ Đặng Thùy Trâm những ngày ác liệt tại Quảng Ngãi trong phòng trưng bày của khu di tích. (Ảnh: Nguyễn Luân)

Cả sơn nguyên trong một chiếc gùi

Tôi luôn bị ám ảnh bởi chiếc gùi trên vai của người phụ nữ vùng cao. Nhiều khi tôi sững người, tự hỏi họ gùi chi mà trầm mặc đến vậy... 

Người phụ nữ M’nông ở hồ Lăk, Dăk Lăk, đi hái ngó sen dưới hồ lên. 

Chiếc gùi là hình ảnh có thể thấy hàng ngày ngay trên đường phố Kon Tum, Buôn Ma Thuột, Gia Nghĩa, Pleiku, An Khê, Buôn Hồ, Bảo Lộc, Đà Lạt. Động cơ xe cộ xuôi ngược chảy theo dòng dưới lòng đường, thì họ xuôi ngược theo dòng của họ trên vỉa hè. Đi "phố" mà vẫn cứ an nhiên với chiếc gùi. Chẳng hiểu có sẵn một ý thức về luật giao thông từ trong máu hay một khả năng nhận thức trời cho về trật tự đi đứng mà bao giờ họ cũng đi thẳng hàng. Không bao giờ thấy họ giăng hàng ngang, đi năm ba hàng, hay đổ xuống lòng đường. Trên chiếc gùi đó, chuyến ra là đầy cả một gùi bắp, phong lan, hay quả bí, nhánh chuối, mớ sắp ong, hay đôi trái bầu hồ lô; còn chuyến về là một gùi quần áo, bột giặt, thực phẩm công nghiệp… Cũng không bao giờ thấy họ vừa đi vừa đùa giỡn. Họ không bao giờ vứt rác ra đường. Không bao giờ họ muốn gây chú ý. Cũng hiếm thấy nụ cười. Họ lặng thinh mà đi, bước thật êm, khoảng cách thật đều. Họ đi theo dòng tự nhiên của sinh hoạt và sinh tồn, đời sống bình dị lặng trôi. Họ đàng hoàng và tử tế đến mức làm chúng ta hổ thẹn về ý thức nơi công cộng, văn hoá ở đô thị. Ăn mặc của họ không bóng láng, môi má họ không son phấn, nhưng sự nhỏ nhẹ của họ khi bán hàng và mua hàng thì muốn học theo cũng khó. Sự ngắn gọn và giản dị trong thông tin họ đưa ra cho phía tiếp nhận khá nhanh, nên thường không cần trao đi đổi lại nhiều, và cũng không phải đối phó trong chuyện bán mua.