25 thg 6, 2017

Kiến trúc sư châu Á duy nhất đoạt giải Khôi nguyên La Mã

Với nhiều công trình nổi tiếng để lại như dinh Độc Lập (nay là Hội trườngThống Nhất), Viện Hạt nhân Đà Lạt, Viện ĐH Huế, Đại chủng viện Đà Lạt, chợ Đà Lạt…, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đã trở thành một cây cao bóng cả của giới kiến trúc sư Việt Nam. 

Có rất nhiều bài báo viết về kiến trúc sư (KTS) Ngô Viết Thụ nên bài viết này chỉ kể lại vài câu chuyện ít người biết, được chính ông kể cho tôi khi còn sống vào hơn 20 năm trước. Tôi vẫn còn nhớ rõ ông đã mặc một chiếc áo dài xanh khi tiếp tôi, một sự trọng thị hiếm có của bậc tiền bối đối với kẻ hậu sinh… 

Xứ Đoài đệ nhất đình So

Với một địa thế phong thủy độc đáo cùng nét kiến trúc cổ tiêu biểu, đình So (làng So, xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, Hà Nội) được mệnh danh là ngôi đình cổ đẹp nhất xứ Đoài khi đã trải qua tuổi đời hơn 350 năm. 

Địa danh xứ Đoài là tên gọi của tỉnh Sơn Tây (cũ), một trong 13 tỉnh được thành lập sớm nhất ở Bắc Kỳ (từ năm 1831) bao gồm diện tích của tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Tây, phía Bắc tỉnh Phú Thọ, một phần tỉnh Tuyên Quang và thành phố Hà Nội ngày nay. Bởi vậy, tuy hiện tại địa danh xứ Đoài không còn nữa nhưng với một vùng diện tích rộng lớn, địa danh này có hàng trăm ngôi đình cổ, mà trong số đó đình So được mệnh danh là “đệ nhất” đình của xứ Đoài. Điều đó cho thấy vị thế quan trọng của ngôi đình này trong kho tàng kiến trúc cổ của vùng Bắc Bộ xưa.

Kiến trúc của đình So được các nhà nghiên cứu đánh giá và công nhận là một trong những ngôi đình cổ có kiến trúc mẫu mực nhất. Đình thờ tam vị Nguyên soái Đại Vương, là các vị tướng đã theo vua Đinh Tiên Hoàng đi dẹp loạn 12 sứ quân (giữa thế kỷ X).

Đình So nằm tại làng So, xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, Hà Nội, đình có tuổi đời hơn 350 năm.

Đám cưới người Giáy ở Tả Van

Những phong tục cổ trong đám cưới được người Giáy ở xã Tả Van (huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai) gìn giữ cho tới ngày nay. Người Giáy xem đám cưới là ngày hội vui và họ tin rằng đám cưới càng tổ chức lớn, càng đông vui thì hạnh phúc của đôi trai gái càng được bền lâu. 

Trước khi diễn ra lễ cưới, đôi trai gái người Giáy phải trải qua một số nghi lễ theo phong tục như: “Thả mối mai” (dạm hỏi) và “mai mối lại” (mặc cả). Hai nghi lễ này chủ yếu bàn việc hôn nhân của đôi trẻ. Khi đã tìm được ngày tốt, nhà trai nhờ ông mối, bà mai đến nhà gái thông báo ngày giờ đón dâu.

Lễ đón dâu của người Giáy là tục lệ khá cầu kỳ và nhiều nét độc đáo. Đoàn đi đón dâu bao giờ cũng đủ các thành phần gồm có đội “pí lè” bốn người, hai cụ già, chú rể, phù rể, hai cô gái, một chàng trai dắt ngựa cho cô dâu và một đoàn người để gồng gánh lễ vật.

Khi nhà trai đi đón dâu đến cổng nhà gái sẽ phải trải qua lễ giữ là bị chặn ngang bởi sợi chỉ hồng, mấy cành gai cản lối. Sau đó là chiếc bàn với đôi chén, hai chai rượu, hai chậu nước lã với hai chiếc chổi rơm chặn cửa để làm phép.

Tượng đất cổ chùa Nôm

Trải qua hơn 1000 năm lịch sử, Chùa Nôm (xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên) vẫn còn lưu giữ khoảng gần 100 pho tượng cổ làm bằng đất có giá trị tâm linh và thẩm mỹ cao. 

Nằm cách Hà Nội khoảng hơn 30 km, mất chừng hơn 40 phút chạy xe, du khách sẽ tới được chùa Nôm. Chùa Nôm còn có tên gọi khác là "Linh Thông cổ tự" bởi xưa ngôi chùa được dựng trong một khu rừng thông.

Chùa Nôm nằm tại xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

24 thg 6, 2017

Cá nục kho cay ăn với cháo trắng - món ngon bình dân ở Đà Nẵng

Cá nục chuối kho khô ăn cùng cháo trắng là món ăn bình dân nhưng thu hút thực khách mỗi lần đến Đà Nẵng.

Ngoài mì Quảng, cao lầu, bánh tráng cuốn thịt heo hai đầu da và các loại khô mắm, hàng quán Đà Nẵng còn có món cháo trắng khiến khách phương xa ưa thích. Cháo ở đây vẫn được nấu bằng gạo dẻo, lót đáy nồi chút lá dứa cho thơm, song điều khiến món ăn trở nên khác biệt so với cháo miền Nam chính là món mặn ăn kèm. 

Về miệt vườn cù lao Tân Quy

Được bao bọc và bồi đắp bởi dòng sông Hậu hiền hòa, cù lao Tân Quy với khoảng 600ha trồng cây ăn trái đã trở thành xứ miệt vườn xanh tươi trù phú với nhiều loại trái cây nổi tiếng. Ngày nay, nơi đây đã trở thành một điểm du lịch khám phá thú vị thu hút du khách gần xa. 

Cù lao Tân Quy nằm giữa dòng sông Hậu, có diện tích phần lớn thuộc huyện Trà Ôn (tỉnh Vĩnh Long) và một phần nhỏ thuộc huyện Cầu Kè (tỉnh Trà Vinh). Từ đất liền, du khách có thể đi theo những chuyến phà dân dụng đưa rước khách hằng ngày qua Cù lao để thong thả ngắm cảnh sông nước hữu tình. Ngoài ra, du khách đến thăm Cù lao có thể ngồi trên những chiếc canô lướt trên dòng sông Hậu để tận hưởng không khí mát lành, sảng khoái.

Nhìn từ xa, Cù lao nổi bật lên giữa vùng sông nước mênh mông với một gam màu xanh tươi của cây lá. Bước lên Cù lao, con đường bê tông nhỏ uốn lượn như bao bọc lấy xứ miệt vườn, nằm dưới những tán cây già tỏa bóng mát rượi.

Chính nhờ nguồn nước quanh năm từ con sông Hậu bồi đắp cùng khí hậu ôn hòa cộng với kinh nghiệm làm vườn lâu năm đã giúp nông dân nơi đây cho ra những loại trái cây ngọt lành, trở thành đặc sản được nhiều người ưu thích.

Cù lao Tân Quy nằm giữa dòng sông Hậu, nơi có diện tích phần lớn thuộc huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long và một phần nhỏ thuộc huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

Trà đình Vũ Di

Cách trung tâm thành phố Huế chừng 7 cây số về phía Tây có một quán trà mới nghe tên đã thấy lạ, ấy là quán “Trà đình Vũ Di”. Và cứ theo như nghĩa Hán Việt mà luận một cách nôm na thì cái tên ấy có nghĩa là “quán trà trong mưa bay”.

Nói như sự trải lòng của bà chủ quán đa cảm khi luận về cái tên ngôi quán của mình, ấy là ở Huế về mùa đông trời mưa phùn gió bấc, từng đám mưa bụi bay nhè nhẹ trong gió đông lạnh giá, nên để sưởi ấm lòng người còn có gì quý hơn một ấm trà ngon nóng hổi với làn khói mỏng nhè nhẹ tỏa hương thơm như sương khói.

Cổng vào Trà đình Vũ Di được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống Huế.

Tiểu Vương cung thánh đường Phú Nhai

Được xây dựng trên diện tích hàng nghìn mét vuông, Vương cung thánh đường Phú Nhai nằm trên địa phận xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường (Nam Định) là một trong những nhà thờ đẹp nhất Việt Nam với lối kiến trúc Gothic kiểu Pháp hùng vĩ. 

Nhà thờ Phú Nhai nguyên thủy được tạo dựng bằng gỗ, lợp bồi do linh mục Chính xứ Emmanuel Rianô Hòa cho xây dựng vào năm 1866. Vào năm 1881, Giám mục Hòa cùng với linh mục Barquerô Ninh xây nhà thờ thứ hai theo kiến trúc Á Đông và hai tháp chuông. Sau thời gian bị chiến tranh làm hư hại, vào ngày 17/3/2003 Nhà thờ đã được khởi công trùng tu tôn tạo lại bởi Giám mục Đaminh Nguyễn Chu Trinh. Đến 26/9/2004 thì Nhà thờ Phú Nhai hoàn thành như diện mạo hiện nay.

Nhà thờ Phú Nhai có chiều dài 80m, rộng 35m, chiều cao là 30m. Đặc biệt, Nhà thờ Phú Nhai có hai tháp chuông cao 44m ở phía trước với 4 quả chuông được đúc từ Pháp chuyển sang, trong đó có quả nặng 2 tấn chỉ sử dụng trong các dịp đại lễ.

Tiểu Vương cung thánh đường Phú Nhai.

23 thg 6, 2017

Mẹ Quan Âm - Bạc Liêu

Từ lâu lắm rồi, tôi vẫn nghe nhiều người đến Bạc Liêu để viếng Mẹ Quan Âm. Ở đó, nơi ven biển có tượng Phật Bà Quan Âm đứng nhìn ra biển, che chở ngư dân được bình an, qua khỏi những cơn sóng gió. Người dân ở đây gọi tượng đài bằng cái tên kính yêu và thân thiết: Mẹ Quan ÂmRồi người nối người, những khách phương xa, không phải ngư dân cũng đến đây khấn cầu sự bình an trong cuộc sống, trong tâm hồn. Mẹ Quan Âm hiền từ đứng uy nghiêm day mặt ra biển che chở chúng sinh.

Tượng Bồ tát Quán Thế Âm được xây dựng từ năm 1973 ở 
ấp Nhà Mát xã Hiệp Thành (nay là phường Nhà Mát, TP Bạc Liêu), cơ bản hoàn thành vào đầu năm 1975. Tượng cao 11 mét (chưa kể chân đế), đứng sừng sững bên bờ biển Đông, sát mé biển và mặt xoay ra biển.Tượng đài tuy giản đơn, nhưng cảnh quan rất hùng vĩ và trang nghiêm dễ gây sự chú ý và ngưỡng mộ cho mọi người.

Tôi vẫn mong một ngày đến ngắm nhìn cảnh quan thiêng liêng này. Mãi đến tháng 4/2017 mới có dịp...

Tượng Mẹ Quan Âm

Rau tầm bóp Mộc Châu - ăn một lần là nhớ mãi

Đến Mộc Châu, được say trong những chén rượu ngô nồng ấm, được thưởng thức gà đồi, bê chao và các loại rau rừng mà chưa ăn rau tầm bóp thì mất đi một trải nghiệm đáng nhớ.

Rau tầm bóp. Ảnh.Hoàng Huế 

Tầm bóp là một loại cây mọc hoang khắp các cánh đồng, bãi đất hoang hoặc các sườn đồi. Thời chiến tranh, tầm bóp là loại rau “cứu đói” cho bộ đội và người dân. Sau đó, người dân trên các vùng núi như Mộc Châu gom hạt giống và gieo trồng như một loại rau.

Người dân ở vùng đồng bằng biết đến rau tầm bóp nhưng không ăn thường xuyên, thậm chí đến nay còn không ăn rau tầm bóp. Nhưng với bà con vùng núi, tầm bóp là loại rau ăn hàng ngày và ở một số vùng như Mộc Châu còn trở thành món ăn đặc sản.