24 thg 7, 2024

Nét đẹp trong trang phục truyền thống phụ nữ dân tộc Cống ở Điện Biên

Dân tộc Cống là một trong những dân tộc ít người đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Ngày nay, cùng với xu thế phát triển và hội nhập, mặc dù có nhiều thay đổi trong đời sống vật chất, tinh thần nhưng cộng đồng người Cống vẫn giữ được những nét văn hóa truyền thống độc đáo, đặc trưng riêng, đặc biệt là nét đẹp trong trang phục truyền thống. 

Phụ nữ dân tộc Cống may trang phục truyền thống. Ảnh: Xuân Tư - TTXVN

Xã Pa Thơm (huyện Điện Biên) là nơi tập trung đông đồng bào dân tộc Cống với hai bản: Púng Bon và Huổi Moi. Toàn xã có 88 hộ dân tộc Cống với hơn 400 nhân khẩu. Theo bà Vì Thì Dung, Phó Chủ tịch UBND xã Pa Thơm, những năm qua, đồng bào Cống được thụ hưởng nhiều đề án, chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số ít người, đặc biệt là Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội vùng Cống trên địa tỉnh Điện Biên”. Từ đó đã tạo được những chuyển biến tích cực trong đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận đồng bào dân tộc Cống trên địa bàn tỉnh.

Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Cống, thời gian qua, huyện Điện Biên đã phối hợp với UBND xã Pa Thơm triển khai nhiều dự án, tổ chức các lớp tập huấn về bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Cống như: Mở lớp dệt, cắt may trang phục; tổ chức Tết Hoa mào gà; mở lớp dạy múa… Qua đó, nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của việc phát huy, giữ gìn nét văn hóa đặc trưng, truyền thống của dân tộc; góp phần giáo dục, truyền dạy lại cho thế hệ sau.

Chiếc áo truyền thống của phụ nữ dân tộc Cống được may bằng vải dệt thủ công, nhuộm chàm. Ảnh: Xuân Tư - TTXVN

Phụ nữ dân tộc Cống thành hành may trang phục dân tộc tại lớp truyền dạy làm trang phục truyền thống dân tộc Cống do Bảo tàng tỉnh Điện Biên tổ chức. Ảnh: Xuân Tư - TTXVN

Ngoài Pa Thơm, cộng đồng dân tộc Cống còn sinh sống tại bản Lả Chà (xã Pa Tần, huyện Nậm Pồ) và bản Nậm Kè (xã Nậm Kè, huyện Mường Nhé). Đối với người Cống, nghề làm trang phục truyền thống ra đời từ nhu cầu cuộc sống của đồng bào. Ban đầu, trang phục có vai trò bảo vệ, che chắn cho cơ thể để đối phó với thiên nhiên như: sự xâm hại của côn trùng, cái nóng, lạnh và sự thay đổi bất thường của thời tiết. Sau này, trang phục giúp tôn lên vẻ đẹp của con người. Từ đó trong quá trình làm ra trang phục, đồng bào dân tộc Cống đã biết sáng tạo ra các họa tiết, hoa văn mới.

Cùng với xu hướng phát triển chung của đất nước, sự giao lưu, hòa nhập văn hóa, trang phục dân tộc Cống hiện nay có đôi nét giống với trang phục của người Thái, Lào…, góp phần làm phong phú, đa dạng trang phục của dân nơi đây. Trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc Cống khá sinh động. Đây là sản phẩm vật chất của lao động, đồng thời cũng là sản phẩm văn hóa thể hiện kỹ thuật thủ công gắn liền với khả năng thẩm mỹ và mang nét văn hóa độc đáo riêng. 

Phụ nữ dân tộc Cống thường mặc trang phục truyền thống vào những ngày trọng đại của bản, gia đình. Ảnh: Xuân Tư - TTXVN

Phụ nữ dân tộc Cống diện trang phục truyền thống. Ảnh: Xuân Tư - TTXVN

Trang phục của phụ nữ Cống khá đơn giản, không phân biệt theo lứa tuổi, bao gồm: áo, váy, khăn và một số đồ trang sức. Chiếc áo truyền thống của phụ nữ dân tộc Cống được may bằng vải dệt thủ công của người Thái, nhuộm chàm. Áo được may bó sát người, tà áo chéo cài sang một bên sườn, ống tay dài. Hai bên tà áo được nẹp các sọc vải dệt của dân tộc màu đỏ, đen, xanh, trắng…

Váy làm từ vải bông, thường là màu nâu đậm hay màu chàm đen; được khâu bằng tay, cạp váy to có ốp vải màu xanh hoặc đen chàm. Phần thân váy thường được trang trí các họa tiết hình tam giác, kẻ sọc ngang và dọc, hình hoa màu xanh, vàng, nâu đan xen.

Khăn của người Cống được may bằng vải đen nhuộm chàm, rộng 40 cm, dài hơn 2 m, khi đội hoặc quàng gấp miếng vải thành 2 - 3 lượt tùy người thích rộng hay hẹp. Dọc hai đầu khăn được khâu theo kiểu vặn thừng thành hai đường, một đường chỉ xanh và một đường chỉ đỏ. Chiếc khăn đội đầu không chỉ để che nắng, che mưa mà còn tạo cho khuôn mặt người phụ nữ thêm tươi tắn. 

Những người phụ nữ lớn tuổi vẫn còn giữ gìn nghề làm trang phục dân tộc. Ảnh: Xuân Tư - TTXVN 

Chiếc khăn đội đầu không chỉ để che nắng, che mưa mà còn giúp khuôn mặt người phụ nữ Cống thêm tươi tắn, sinh động. Ảnh: Xuân Tư - TTXVN

Chị Nạ Thị Ban, người dân tộc Cống ở xã Pa Thơm (huyện Điện Biên) cho biết, ngày nay với cuộc sống hiện đại và để thuận tiện cho công việc nương rẫy hằng ngày, cộng đồng người Cống không thường xuyên mặc trang phục truyền thống. Bởi vậy, trang phục truyền thống chủ yếu được mặc vào các dịp trọng đại như lễ, Tết hay sự kiện của bản, gia đình. Đây là cơ hội để chị em diện những bộ trang phục truyền thống đẹp nhất với niềm tự hào về văn hóa của người dân tộc Cống.

Trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc Cống xuất phát từ nhu cầu của đời sống thường ngày, thể hiện sự sáng tạo của con người, thông qua trang phục còn ẩn chứa những giá trị văn hóa tinh thần và xã hội, gắn với sinh hoạt, nếp sống văn hóa của gia đình và cộng đồng. Với cách trang trí, chắp ghép vải tinh tế, độc đáo, đường thêu hoa văn khéo léo đã thể hiện tính thẩm mỹ, lịch sử và văn hóa của dân tộc Cống. Điều này được thể hiện qua hình dáng, màu sắc các họa tiết hoa văn trên mỗi loại trang phục để phù hợp với tâm lý, giới tính, lứa tuổi.

Hiện nay, việc tạo ra những bộ trang phục truyền thống của người dân tộc Cống đã bị mai một, chỉ còn một số người cao tuổi nhớ được cách thức, quy trình làm ra những bộ trang phục của nữ giới và nam giới. Một số ít hộ dân còn giữ được những bộ trang phục mang tính truyền thống về kiểu dáng, hoa văn nhưng có sự thay đổi về chất liệu vải. Họ sử dụng chủ yếu là chất liệu vải công nghiệp được bán sẵn trên thị trường. Một số họa tiết trang trí, thêu, ghép... cũng đang dần mai một và được thay thế bởi hoa văn dệt sẵn không đúng với hoa văn truyền thống. 

Phụ nữ dân tộc Cống may trang phục truyền thống. Ảnh: Xuân Tư - TTXVN

Phụ nữ dân tộc Cống cùng nhau may trang phục truyền thống. Ảnh: Xuân Tư - TTXVN

Theo Giám đốc Bảo tàng tỉnh Điện Biên Đặng Trọng Hà, để bảo tồn trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc Cống, năm 2022, đơn vị đã mở lớp truyền dạy nghề cho các học viên từ 15 - 50 tuổi có khả năng thực hành và truyền dạy cho những người khác trong cộng đồng. Dưới sự hướng dẫn của các nghệ nhân am hiểu về trang phục truyền thống của dân tộc Cống, các học viên được truyền dạy thực hành cách thức hoàn thiện hai bộ trang phục của nam và nữ; bao gồm các quy trình: chuẩn bị nguyên liệu; kỹ thuật đo, cắt, khâu, chắp, ghép, can vải màu; thêu hoa văn; làm cúc và khuy áo... Đây là hoạt động thiết thực giúp cộng đồng người Cống nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc gìn giữ, phát huy bộ trang phục truyền thống nói riêng, giá trị văn hóa dân tộc nói chung.

Xuân Tư (TTXVN)

Dân tộc Cống

Tên tự gọi: Xắm khống, Phuy A.

Dân số: 2.029 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng) gần hơn với tiếng Miến, cùng nhóm với các tiếng La Hủ, Phù Lá, Si La... Họ quen sử dụng tiếng Thái trong giao dịch hàng ngày.

Lịch sử: Người Cống có nguồn gốc di cư trực tiếp từ Lào sang.

Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương, đang chuyển sang làm nương cuốc, ruộng. Hái lượm còn giữ vai trò quan trọng. Người Cống không quen dệt vải, chỉ trồng bông để đổi lấy vải của các dân tộc khác. Họ giỏi đan chiếu mây nhuộm đỏ, các đồ đựng bằng tre nứa như gùi đeo, giỏ đựng cơm, rương hòm... Chuyển xuống định cư ven sông Ðà, nên người Cống quen dần với việc sử dụng thuyền trên sông.

Ăn: Người Cống ăn cơm nếp và cơm tẻ.

Mặc: Y phục của người Cống giống người Thái. Một ít gia đình còn giữ lại vài bộ y phục truyền thống bằng vải dệt của người Lào.

Ở: Nhà sàn ba hay bốn gian, chỉ có một cửa ra vào, một cửa sổ ở gian giữa, chạy dọc theo vách mặt chính của nhà có thêm một chiếc sàn nhỏ ít có giá trị sử dụng nhưng nhà nào cũng có là đặc trưng trong nhà người Cống.

Phương tiện vận chuyển: Người Cống quen sử dụng thuyền đi lại trên sông Ðà và gùi đeo qua trán khi đi nương, đi rẫy.

Quan hệ xã hội: Người Cống ở khá tập trung trong các làng bản có quy mô vừa và lớn. Tính cộng đồng làng bản cao. Phụ nữ có vai trò quan trọng trong gia đình cũng như xã hội.

Trong xã hội cổ truyền, chưa có sự phân hoá giai cấp, chịu sự chi phối chặt chẽ của hệ thống chức dịch người Thái.

Dân số ít song người Cống có tới 13 dòng họ khác nhau. Ða số các dòng họ mang tên Thái như: Lò, Quang, Kha... dấu vết tô tem giáo còn rõ nét với tục kiêng và thờ các loại chim muông, thú vật. Mỗi dòng họ thường có người đứng đầu với chức năng chủ trì các công việc liên quan tới đời sống tinh thần.

Cưới xin: Hôn nhân một vợ một chồng chặt chẽ. Không có đa thê, ly dị trong xã hội truyền thống.

Tục ở rể được thực hiện nghiêm ngặt, trước kia khoảng 8 - 12 năm. Lễ vật truyền thống trong lễ xin con trai tới ở rể thường vào buổi tối là gói muối, gói chè, cuộn dây gai đan chài, hay một ống rượu cần... Ngay sáng hôm sau, người con trai mang chăn, gối, con dao tới nhà gái ở rể, cũng từ đó người con gái búi tóc ngược đỉnh đầu, dấu hiệu của người đã có chồng.

Lễ đón dâu về nhà trai khi hạn ở rể đã hết, lúc đó đôi vợ chồng đã con cái đầy nhà. Của hồi môn bố mẹ cho con cái mang về nhà chồng. Nếu nhà trai người cùng bản phải cõng cô dâu về tận nhà. Trong ngày cưới, người ta không mặc quần áo mới vì có tục vẩy nước tro lên đoàn đón dâu trước khi ra về để cầu may.

Sinh đẻ: Sản phụ đẻ ngồi. Trước và sau khi đẻ phải kiêng kỵ nhiều thứ. Người Cống rất giỏi trong việc tìm kiếm lá thuốc để chăm sóc phụ nữ khi sinh nở.

Ma chay: Khi nhà có người chết, phải mời thầy mo tới làm lễ cúng đưa hồn về với tổ tiên. Việc chọn ngày chôn được coi trọng. Trong những ngày trước hôm chôn, thường phải cúng cơm cho người chết, buổi tối có các nghi thức nhảy múa truyền thống. Sau khi táng có làm nhà mồ đơn giản. Mười hai ngày sau khi chôn người chết, con cháu mới lập bàn thờ trong nhà. Con cái để tang cha mẹ bằng cách cạo trọc đầu (con trai), cắt tóc mai (con gái) và đội khăn tang cho tới khi cúng cơm mới, mới được bỏ.

Thờ cúng: Cùng với việc cúng tổ tiên 2, 3 đời theo phụ hệ là việc cúng ma bố mẹ vợ vào dịp tết. Bố chủ trì việc cúng. Nếu bố chết, mẹ thay thế. Khi anh em chia nhà ra ở riêng, mỗi người con trai lập bàn thờ cúng riêng tại nhà mình. Lễ vật cúng tổ tiên chỉ có bát gạo, ống nước và con gà. Người cúng ôm gà ngồi trước bàn thờ khấn, xong giết gà ngay tại chỗ, bôi máu vào lá dong, gói lại cài lên vách nơi thờ cúng vài ba chiếc lông gà.

Hàng năm cứ đến tháng ba âm lịch, các bản đều tổ chức lễ cúng bản trước vụ gieo hạt, các ngả đường vào bản làm cổng, cắm dấu hiệu kiêng kỵ một ngày không ai được vào bản.

Các gia đình đều làm lễ cúng trên nương trước khi kết thúc công việc tra hạt. Ðêm đó chủ nhà làm lễ cúng ở phía trên lều nương; lễ vật chỉ có cá, cua, cầu mong chim thú không phá hại; trồng vài khóm kiệu cầu xin lúa tốt, xanh tươi như khóm cây này.

Học: Việc giáo dục truyền thống thông qua kinh nghiệm truyền từ đời này sang đời khác kết hợp với thực hành.

Văn nghệ: Người Cống thường hát múa vào dịp lễ tết, nhất là trong đám cưới. Hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái hôm đón dâu ở chân cầu thang trước khi lên nhà thực sự là một cuộc thi hát dân gian. Trai gái, già trẻ đều vui múa trong ngày cưới. Ðặc biệt là điệu múa đầu tiên do các em gái của chàng rể trình diễn để bắt đầu cuộc vui. Họ vừa múa, vừa giơ cao các tặng vật truyền thống như con gà, con sóc, cá khô mà người anh trai tặng mình.

 Thầy cúng của bản thực hiện nghi lễ cúng trong ngày Tết hoa mào gà. Ảnh: Xuân Tư – TTXVN

Chơi: Các trò chơi tập thể như đuổi bắt, đánh khăng... được trẻ em ưa thích. Ngoài ra, chúng còn chơi các loại đồ chơi bằng tre gỗ tự chế.

Theo cema.gov.vn

Xuân Tư 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét