1 thg 3, 2024

Những bến sông ở phía thượng nguồn Vàm Cỏ Đông

Ðấy là ở thượng nguồn Vàm Cỏ Ðông, con sông thương nhớ của người Tây Ninh, đã vào đủ cả thơ, ca, nhạc hoạ. Hay là do nhạc hoạ, vì quá hay nên cứ tự vang lên mà nhắc nhở con người đừng quên nó.

Bến Năm Chỉ

Mỗi năm, tôi có đôi lần đi ngược “con đường sứ” ngày xưa, tìm tới các bến sông. Ðấy là ở thượng nguồn Vàm Cỏ Ðông, con sông thương nhớ của người Tây Ninh, đã vào đủ cả thơ, ca, nhạc hoạ. Hay là do nhạc hoạ, vì quá hay nên cứ tự vang lên mà nhắc nhở con người đừng quên nó. Và thế là lòng tự nhủ lòng, là sẽ lên với Cây Ổi, Băng Dung, hay Lò Gò, Bến Ra trên tận ngọn nguồn sông.

Tôi vừa nhắc tới Bến Ra, dù ngày nay không còn bến nữa, nhưng đọc lại sách “Tây Ninh Ðất và Người” của nhóm tác giả Nguyễn Thanh Lợi, mới hay Bến Ra chính là bến qua sông đầu tiên từ Campuchia sang, trên “con đường sứ”.

Ngày nay, bến nằm lọt thỏm giữa vùng lõi của Vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát. Vẫn còn một con đường mòn len lỏi giữa rừng cây hơi dốc xuống mé bờ sông. Và, hai bên bến tràn ngập một sắc tre xanh óng ả. Những bụi tre rậm dày nghiêng ra sông, có cả những vòi măng vàng ửng lung lay trong gió sớm. May là tôi đến lúc rừng chưa kịp hoàn nguyên. Ðể thấy được nơi này rất nhiều lá trung quân- thứ lá lợp nhà trong các khu căn cứ của Trung ương Cục và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thời kháng chiến chống Mỹ.

Tôi lại nhớ bến Lò Gò. Dường như ở đấy có nhà trạm đầu tiên của Vườn quốc gia. Nhưng đây không phải là bến sang sông, mà chỉ là bến dừng chân cho những ghe, thuyền từ hạ nguồn sông lên ghé lại. Quang cảnh ở đây hùng vĩ lắm. Bởi bờ bên phía Ðông là Lò Gò, đã có gò cao lại cao thêm chót vót bóng cây rừng. Ðã thế còn chằng chịt dây leo tạo những khối hình chênh vênh hiểm trở.

Cách đây gần 10 năm, có một anh cán bộ từ Hà Nội vào cứ nằng nặc đòi dẫn lên bến Lò Gò. Bởi kháng chiến chống Mỹ anh từng có mặt chiến đấu trên bến sông này - mà anh coi là một bến sông lịch sử. Tôi theo, và đã lặng người đi trước vẻ đẹp chông chênh hoành tráng của bến Lò Gò. Thú vị nhất với tôi là được gặp lại vô số bông hoa mã đề thơ mộng trên bến Lò Gò.

Vẫn là những chiếc lá lả lướt dài như một bàn tay thiếu nữ; và bông hoa trắng mỏng manh như những nụ hoa nhài… Cùng với mã đề, vùng sông này còn nở đầy hoa súng. Súng hồng và súng vàng, súng trắng. Cọng mỏng manh vươn lên, xoè ra những cánh thon như thể những bông đồng tiền sang trọng, mà vẫn giữ cho mình một nét duyên quê thầm kín. Thế thôi!

Từ Lò Gò, xuôi dòng xuống chừng hơn 6km đường sông là tới một bến sang sông, lúc nào cũng đông vui tấp nập. Ðấy là bến Năm Chỉ thuộc xã Hoà Hiệp. Từ bến vào chợ xóm Giữa chỉ khoảng 3km. Ðây là nơi qua sông của đủ thứ hàng nông sản, từ cây mía, củ mì cho đến các bao than. Năm bảy năm về trước, bến có một con phà gỗ nhỏ, chỉ chở được chừng 10 xe máy. Vậy mà nay đã được thay bằng những con phà mới cao to gắn máy nổ tưng bừng. Phà cũ chỉ qua bằng cách kéo dây cáp chăng ngang.

Nghe người dân mách, phà mới là do Tập đoàn Thành Thành Công (TTC) sở hữu, để phục vụ chuyên chở nông sản từ những dự án nông nghiệp liên kết bên kia biên giới. Tôi tin, vì đã từng chứng kiến những con phà gỗ nhỏ bé ngày xưa chở nặng những bao củ mì tươi sang sông bán cho các nhà máy bên này. Phà cập bờ, những xe máy cày ủn rơ-moóc tới để nhân công vác những bao củ mì xếp chồng cao chất ngất. Tại đây, trên bến có một trạm chốt của đồn biên phòng Lò Gò, gọi là chốt Cây Sung. Bên kia cũng có vài ngôi nhà đơn sơ của chốt biên phòng nước bạn. Chỉ sơ sài vậy thôi, mà cũng đã tưng bừng một vùng sông nước còn thâm nghiêm bóng cả cây rừng.

Xuôi theo dòng nước trong xanh sông Vàm Cỏ Ðông thêm chừng 12 cây số nữa sẽ đưa ta về một bến sông lịch sử khác. Ðấy là bến Trung Dân. Bên tả ngạn sông là đất xã Phước Vinh, còn bên hữu ngạn là ấp Tân Ðịnh, xã Biên Giới. Cách đây chưa lâu, Tân Ðịnh còn gọi là Lồ Cồ- một cái tên đã nằm trong thương nhớ của nhiều người kháng chiến. Nhớ! Vì trong cuộc Tổng tiến công mùa xuân 1968, đây là nơi: “một trung đội dân công (Phước Vinh) đi chuẩn bị chiến trường trước 6 tháng, đã đi từ Cầu Ðương đến Tà Bôi vác võ khí nhiều lượt, sẵn sàng đưa ra phía trước lúc Tổng tấn công xuân 68” (sách Truyền thống cách mạng xã Phước Vinh, 1985).

Nhớ! Vì đã có hàng trăm người dân Phước Vinh tình nguyện đi dân công. Khi thì “vác võ khí từ kho hậu cần của tỉnh xuống Gò Dầu cho d14…”; lúc lại: “vác đạn xuống tàu chở qua xóm Ruộng để phục vụ đánh Trảng Lớn” (Sđd). Và nhớ! Vì một thế hệ thầy cô và học sinh trường Hoàng Lê Kha kháng chiến cũng không thể quên chiến dịch tham gia vác đạn từ Cầu Ðương vượt sông, băng qua quốc lộ 22B về Trà Vong, Suối Nút cho Tiểu đoàn 5 Pháo binh, trút đạn xuống chi khu quân sự Tây Ninh vào đúng dịp tết của mùa Xuân năm 1968 anh hùng.

Nhờ cây cầu Phước Trung mới bắc qua sông Vàm Cỏ Ðông mà bây giờ ta rất dễ dàng đến được Cầu Ðương. Ðấy là trên con đường vành đai biên giới. Một cây cầu bê tông. Dưới chân cầu, nước rạch Cầu Ðương bình thản trôi lờ lững. Không gian đã chìm vào im vắng. Còn đâu những sôi động một thời kháng chiến chưa xa.

Kể cho chính xác, thì cầu Phước Trung còn cách bến Trung Dân khoảng 1km phía thượng nguồn, nơi được gọi là Vàm Trảng Trâu đây, thưa quý bạn! Gọi là vàm, bởi nơi này là một ngã ba sông. Ðây là nơi mà sách “Ðại Nam nhất thống chí” miêu tả là: “trên phía tây, nước chia thành hai đường, dòng phía bắc tục gọi “Cái Bát”, đi về phía Bắc hơn 100 dặm đến suối cùng (đầu nguồn); dòng phía tây tục gọi “Cái Cạy” đi về phía tây 150 dặm đến suối cùng, đều là đất thông liền của rừng Quang Hoá…”.

Cũng là nhờ sách “Tây Ninh Ðất và Người”, mà ta sẽ biết thêm chiều dài 2 nhánh Cái Bắc và Cái Cạy trên đường biên giới Việt Nam - Campuchia. Phần phụ lục của sách cho biết dòng Cái Bắc (còn gọi rạch Benggo) dài 40.454 mét; còn dòng Cái Cạy dài chỉ 2.077 mét, cũng là đường biên giới theo sông với tỉnh Kampong Cham nước bạn.

Còn cái tên Vàm Trảng Trâu? Ông Nguyễn Thanh Hùng - cố Chủ tịch UBND huyện Tân Biên lúc sinh thời cho biết: Phải gọi là Vàm Trán Trâu mới đúng, vì dòng nước chia hai nơi này tạo ra hình dạng một cặp sừng trâu. Do vậy cái vàm sông ấy có hình thù như cái trán một con trâu. Lại có một giả thuyết khác do bản đồ xưa để lại. Ðấy là vị trí trảng bên Lồ Cồ được ghi là Trảng Châu. Có nghĩa là trảng trống nơi này đẹp như châu ngọc… Cho dù là giả thuyết nào, thì Vàm Trảng Trâu hiện nay cũng là một vùng non sông thuỷ tú đẹp vô biên và tràn trề sinh lực. Thật là một nơi đáng để dừng chân khám phá thượng nguồn sông.

Nếu như ở Vườn quốc gia Lò Gò-Xa Mát có lá trung quân (nghe nói do vua Gia Long đặt tên), thì ở thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông có bến Trung Dân. Không ai biết tên ấy có từ khi nào và do ai đặt. Nhưng khái niệm “Trung Dân” còn xa lạ với thời phong kiến. Vậy chỉ có thể có từ thời dân ta theo cách mạng mà thôi.

Bến Trung Dân

Có lẽ cảm ơn người đã đặt một cái tên đẹp, nên bến sông này có một đặc sản để tạ ơn con người. Nhưng đấy là từ khoảng hơn 20 năm trước. Khi ấy, cứ đến khoảng tháng 5 dương lịch là có một loài cá bột trôi về. Cá mới nở, chỉ nhỏ như một cái đầu tăm, trong như bọt nước.

Vậy nên hầu như mắt thường không nhìn thấy được. Chỉ những đôi mắt dày kinh nghiệm của dân chài mới nhận ra. Thế là trong mùa cá bột khoảng 2 tuần, dân chài các nơi kéo về bến đông như ngày hội. Ghe chèo tay thủng thẳng. Ghe gắn máy băng băng xuôi ngược. Có hàng trăm ghe xuồng trên khúc sông từ bến Trung Dân lên tới vàm trảng.

Trên ghe, ngư dân cầm vợt, mắt săm soi mặt nước. Nơi nào có dấu hiệu cá bột là vớt lên. Những năm ấy, dân chơi cá kiểng Sài Gòn mê loại cá hồng vện, được ương từ loại cá bột này lắm. Một con nhỏ như đầu tăm ấy có giá từ 15.000 đến 20.000 đồng. Mà đấy là giá cả của 20 năm trước. Có người ngày vớt được cả trăm con.

Rồi chẳng biết vì sao, cá bột không về bến Trung Dân nữa. Có lẽ nó cũng giống loài hoa mã đề trên sông Vịnh, không chịu nổi nước sông ô nhiễm nên dần rút về phía thượng nguồn. Mà lạ nhé, chỉ có nhánh sông Cái Cậy là có loài cá quý ấy. Nhánh này chạy cặp bờ xã Biên Giới chỉ 2km, rồi vào sâu trong đất bạn. Đến nay thì hồng vện cũng đã hoàn toàn vắng bóng. Nhắc lại chuyện này chỉ như ôn lại một kỷ niệm vui về bến Trung Dân.

Theo dòng sông, xuôi khoảng 4 cây số là tới bến Lồ Cồ. Lúc sinh thời qua đây, nhà thơ Cảnh Trà từng viết “Ấp Lồ Cồ nằm bên dòng Vàm Cỏ Đông xanh mát/ Có bến sông và cô gái chèo đò…”.

Đấy cũng là chuyện của hơn 20 năm trước mất rồi! Và cũng ở trong một mùa khác, không phải mùa lũ lớn. Năm ấy, bến còn có cô gái chèo đò. Sau đó ít lâu, đò đã được thay bằng một chiếc phà vuông có buồng lái trống toang được che sơ sài bằng một tấm tôn. Còn hôm nay, cuối năm 2023, đúng mùa nước lớn, hai bên bờ nước ngập mênh mông.

Ghé bến Lồ Cồ, chỉ thấy một bến sông vắng lặng. Con phà neo lại giữa rác rến, lục bình. Cũng còn một chiếc xuồng con, cho ông lái phà trên bến đi lại khi cần. Ông đang ngồi trên chiếc ghế đá chỏng chơ, ca một bản tài tử cải lương. Ngậm ngùi, ông bảo ngày thường cũng đã ít người qua nói chi mùa nước lớn.

Vâng! Kể từ năm 2020, khi cầu Bến Cây Ổi thông xe thì khách qua sông đã vắng. Nhưng vì sao người vẫn cứ kiên nhẫn giữ phà giữ bến? Hay là bởi người đã quá nặng lòng với bến sông? Bên hữu ngạn là bến Lồ Cồ; thì bên tả ngạn là bến Cây Sao thuộc xã Phước Vinh. Nơi nào cũng ghi dấu ấn một thời kháng chiến.

Sách Lịch sử Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh (2014) còn ghi: “Trong giai đoạn này (từ đầu 1960 đến giữa 1965) nhà trường còn tăng gia 1,5 ha ruộng tại rạch Lồ Cồ để tự túc lương thực, trung bình mỗi năm thu 220 giạ lúa. Nhà trường phải bán bớt lúa, mua một đôi trâu cái, một máy may, một tông đơ cắt tóc, tiếp nhận thêm một nhân viên mới… biết may vá”.

Có thể nói đây là thời kỳ cái ăn cái mặc được cải thiện nhất của trường Đảng (tiền thân Trường Chính trị Tây Ninh)…” Rồi tới: “Tháng 5 năm 1965, trường Đảng Tây Ninh ở bến Cây Sao được vinh dự chọn làm nơi tổ chức Đại hội Tỉnh đảng bộ.

Cán bộ và nhân viên nhà trường đã hết lòng phục vụ, góp phần tích cực vào thành công của Đại hội. Trong Đại hội này, đồng chí Võ Đức Tú là đại biểu duy nhất của trường Đảng trúng cử Tỉnh uỷ viên dự khuyết và được phân công làm Phó Ban Tuyên huấn, phụ trách trường Đảng…”. Trong khi đó, còn nhiều lực lượng cách mạng khác từng qua lại hoặc gắn bó với bến sông này trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Từ bến Cây Sao, xuôi dòng gần 3 cây số thì đến bến Băng Dung, còn về bến Cây Ổi phải gần 9 cây số nữa. Nhưng xin bỏ qua Băng Dung mà về ngay Cây Ổi, bởi ngày nay ở đó đã có một cây cầu mới bắc qua sông.

Bến sông này đẹp lạ lùng, bởi bên phía Hoà Thạnh vẫn còn vài cây me tây đường bệ nằm sát bờ sông soi bóng nước. Cây me không cao lắm, nhưng nhìn thân cây lớn phải 3-4 người ôm mới hết cho ta biết cây đã tuổi quá trăm năm.

Thân lại chia thành vài nhánh vươn lên, xoè rộng tán lá như một cây dù xanh khổng lồ. Khi xây cầu, người ta đã khéo léo để mố cầu lách qua, bảo tồn những cây me. Để hôm nay, dù có phóng xe nhanh lên dốc, người đi vẫn được ngắm những tàn me bốn mùa xanh che chở một dải bờ sông tuyệt đẹp. Này nhé, lục bình từng mảng dập dềnh trôi nổi trên sông. Đôi bờ thoáng đãng để tầm mắt phóng về xa tắp, tràn một màu xanh lúa non hoặc mùa lúa chín rực vàng.

Xuống bờ sông, dưới chân cầu ngắm về phía hạ nguồn sông, một ngày đẹp trời còn thấy núi Bà Đen trỗi lên một sắc lam tím nhạt, dưới trời xanh mây trắng bao la. Khúc sông này cũng từng có cá bột hồng vện từ thượng nguồn trôi xuống, nhưng đấy là chuyện của khoảng 30 năm trước. Sau đó cá mới rút dần lên bến Trung Dân như đã kể trên. Chuyện gần đây, là chuyện cây cầu xây từ 2019 đến 2020 thì hoàn thành.

Năm 2019, vẫn còn những bầy cò nhạn (cò ốc) qua lại bến sông này và trên vùng trời Hoà Hội, Hảo Đước để kiếm ăn. Cho đến nay, các xóm nhỏ của dân chài ven sông vẫn còn đó, họ miệt mài chài lưới trên sông kiếm sống.

Xem sách “Từ điển Địa danh Hành chính Nam bộ” (Nguyễn Đình Tư, Nxb Chính trị Quốc gia, 2008) mới biết các thôn xóm hai bên bến Cây Ổi đã có từ lâu. Phước Vinh từng là làng Tapang Pro Srốc, được thành lập năm 1876 dưới thời Pháp thuộc. Còn bên bờ hữu ngạn nay là Hoà Thạnh, từng là làng Đây Xoài Praha Miết, lập năm 1877 thuộc tổng Khán Xuyên. Có thôn làng, một dòng sông lớn đi qua giữa miền nương rẫy, ruộng vườn trù phú.

Đời sống tâm linh cũng được nảy nở. Bên Đây Xoài có chùa Khmer Hiệp Phước, thì bên Tà Păng cũng có xóm Chùa (do chùa xưa đã mất, chỉ để lại tên). Vậy thì phải có bến, có đò cho dân qua lại làm ăn. Người Tà Păng (nay là Phước Vinh) thường qua bến Cây Ổi, đi thêm hơn chục cây số nữa là đến chợ Bến Cầu hay chợ Tà Nông, nơi trao đổi hàng hoá với người Khmer từ bên kia biên giới. Nề nếp ấy vẫn được duy trì đến nay, dù có gián đoạn bởi hơn 30 năm kháng chiến.

Bởi thế mà đến năm 2000, bến phà Cây Ổi được “hiện đại hoá”, hơn hẳn những bến sông ở thượng nguồn. Đến 2020 lại có cầu. Ai qua đây chắc nhớ, suốt trong 2 năm xây cầu, con phà bến Cây Ổi vẫn cần mẫn luồn lách qua các mố cầu bê tông để chở khách qua sông, dù mỗi chuyến chỉ chở khoảng 2-3 người cùng xe máy.

Nhớ năm 2016, khi cầu Bến Đình xong, thì ông chủ nhiệm Hợp tác xã thông báo, con phà này sẽ được đưa lên bến Cây Ổi. Nay, cầu bến Cây Ổi cũng xong rồi, thì con phà cần mẫn ấy đã về đâu?

Trần Vũ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét