8 thg 2, 2013

Đua ngựa truyền thống trên gò Thì Thùng

Đã trở thành truyền thống, vào mỗi dịp xuân về, những chú ngựa thồ quanh năm gắn bó với cuộc sống người dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên lại có dịp tham gia vào Hội đua ngựa gò Thì Thùng. Năm nay, 32 kỵ sĩ là nông dân chân chất đã tham gia ngày hội, thu hút hàng ngàn người dân địa phương và du khách gần xa đến xem.

Đua ngựa truyền thống trên gò Thì Thùng (xã An Xuân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) đã trở thành một trong những hoạt động văn hoá đặc sắc của người dân nơi đây. Ngày hội đua ngựa năm nay diễn ra vào mồng 9 Tết (ngày 11/2 Dương lịch) với 32 kỵ sĩ là những nông dân chân chất, sống ở các xã An Cư, An Hiệp, An Lĩnh, An Thọ và An Xuân thuộc huyện Tuy An. 

Gò Thì Thùng cách tỉnh lỵ Phú Yên khoảng 40 cây số về phía Tây Bắc và là di tích lịch sử cấp Quốc gia với địa hình bằnh phẳng. Do vậy, mặc dù địa điểm đua ngựa chỉ là một khoảng đất trống rộng hơn một sân vận động và ở độ cao 440 mét so với mặt nước biển nhưng đã thu hút hàng ngàn người trong, ngoài tỉnh nô nức về đây chen dọc hai bên đường đua dài chừng một cây số để thưởng thức, cổ vũ. Ở cuộc đua năm nay, xã An Hiệp đã giành giải nhất toàn đoàn. Tuy nhiên, giải thưởng lớn nhất là mọi người được dự ngày hội Năm mới và xem những chú ngựa lướt sóng trên đường đua như thế nào. 


Tạo hồn cho đá

Khác với những làng đá nổi tiếng khác, nét độc đáo của làng đá Ninh Vân thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình chính là ở các sản phẩm đá mỹ nghệ được chế tác hoành tráng trên các công trình lớn như: đình, chùa, lăng mộ, tượng đài, phù điêu... Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, xưa kia, nơi đây đã nổi tiếng với nghề làm tượng đá cho kinh thành và đền chùa ở Hoa Lư, từ thời các vua Đinh (968 - 980), Tiền Lê (980 - 1009).

Những người dân làng nghề cũng đã từng tới Thăng Long, theo vua Lý Thái Tổ sinh cơ lập nghiệp, tạo nên những bức tượng đá, thành quách và chùa chiền từ thời Lý (1010 - 1225) qua thời Trần (1225 - 1400).

Nghệ nhân bậc thầy Hoàng Sùng, người gốc Thanh Hóa được coi là ông Tổ nghề chạm khắc đá mỹ nghệ Ninh Vân. Cái tên làng đá Ninh Vân vốn là tên gọi chung của hai làng Xuân Vũ và làng Hệ. Trong đó, làng Hệ là nơi khởi đầu nghề điêu khắc đá, nơi còn lưu giữ văn bia ghi công ông Tổ nghề, ngày giỗ Tổ vào tháng 8 (âm lịch) hàng năm.

Người nghệ nhân đang thổi hồn vào phiến đá.

Hoàng thành Thăng Long - một di sản văn hóa vô giá

Di sản Văn hóa Thế giới Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội rộng chừng 18.000m 2 trên tổng số hàng chục nghìn mét vuông tập trung ở khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và khu vực thành cổ Hà Nội. Đây là nơi chứa đựng một di sản văn hóa vô giá không những tiêu biểu cho những tinh hoa văn hóa dân tộc mà còn mang những giá trị có ý nghĩa toàn cầu nổi bật.

Khu di sản gồm một số di tích trên mặt đất, có niên đại sớm nhất là nền điện Kính Thiên thời Lê Sơ với bậc thềm đá và lan can đá chạm rồng làm năm 1467. Cửa Đoan Môn là cửa Nam của Cấm thành Thăng Long, rồi đến di tích thành Hà Nội thời Nguyễn có Cửa Bắc và Kỳ đài (thường gọi là Cột Cờ). Cuối thế kỷ XIX còn để lại một số kiến trúc quân sự của quân Pháp như Chỉ huy sở pháo binh xây dựng trên một phần nền điện Kính Thiên... Rõ ràng qua sự hủy hoại của thời gian, sự tàn phá của chiến tranh và cả hành động phá hoại của con người, di tích trên mặt đất của Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn vật không còn mấy. 

Nhưng may mắn là lòng đất còn bảo tồn được nhiều di tích, di vật của các thời kỳ lịch sử như nhiều nhà sử học, khảo cổ học thường nói là "có một Thăng Long - Hà Nội trong lòng đất". Những di tích này dĩ nhiên không toàn vẹn bởi chúng tồn tại dưới dạng các phế tích nhưng vô cùng phong phú và mang tính xác thực rất cao. Điều đáng lưu ý là những giá trị đặc biệt của "Thăng Long - Hà Nội trong lòng đất" lại tập trung cao độ trong khu di sản “Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội”.

Cổng thành Cửa Bắc, một trong những dấu tích còn nguyên vẹn của Hoàng thành Thăng Long xưa. 

Lễ cúng Tuần của người Chăm

Theo tục lệ của người Chăm hồi giáo Bà Ni ở Bình Thuận, sau khi kết thúc lễ mai tán, gia đình người quá cố tiếp tục làm lễ cúng Tuần (tiếng Chăm gọi là Phathi) ở nhà trong 3 ngày. Ngày đầu gọi là “Dấu Van”, ngày thứ hai “Tak Ku Bâu Yâu” ( lễ giết trâu), ngày thứ ba “Pố Non” (lễ tiễn đưa). Vật phẩm trong lễ cúng Tuần gồm một cặp trâu, một tấn gạo, cá, trầu cau, đường… 

Các nghi lễ cúng Tuần hầu hết sẽ do thầy Cả điều khiển, đọc kinh cùng với các tăng lữ. Những người trong làng đến tham dự sẽ giúp gia đình dựng “chànk” (nhà lều) để làm lễ. Ngay sau lễ mai táng vào buổi sáng, vào tầm 4 - 5 giờ chiều, gia đình sẽ tiến hành làm lễ Dấu Van với những lễ vật rất đơn sơ, chỉ có cơm với thịt gà.

Đoàn người dâng lễ vật trong Lễ Pố Non tại thôn Văn Lâm 4, thuộc xã Văn Lâm, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. 

7 thg 2, 2013

Sông nước Cần Thơ

Ai đã có dịp về Cần Thơ sẽ không thể nào quên được nhịp sống đầy sôi động của vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nên thơ, trù phú và khu du lịch phù sa hấp dẫn với nhiều món ăn ngon.

Cảm nhận đầu tiên khi đến Cần Thơ chính là không gian xanh trải dài của rừng bần. Cũng không có gì ngạc nhiên khi bạn bắt gặp rất nhiều những chiếc xuồng nhỏ dọc ngang trên sông nước. Cùng với xuồng là hồ sen và những chiếc lu nhỏ. Không ít người dân xa Cần Thơ lâu năm, gặp lại hình ảnh chiếc xuống, chiếc lu mà rưng rưng nước mắt, bởi những hình ảnh đó như gợi lại kí ức tuổi thơ của họ một thời.

Đón chào du khách về thăm Cần Thơ là những hàng cọ xanh mát xoè ô che kín lối đi. Trẻ con thì thích ôm thân cọ chụp ảnh, người lớn thích vít cành cọ để có cảm giác lá cọ ram ráp bên tay. Cần Thơ còn đẹp và tươi mới ở chính những tum nhà lá nhỏ. Vào thăm từng tum nhà, du khách như được đi trong một thế giới của lá dừa. Dọc theo các bờ kênh là những tum nhà lá, vườn cây ăn quả mát mắt và tươi xanh. Chính vì nằm cạnh rừng bần nên du khách được chứng kiến nào khỉ, nào sóc, cùng với cuốc, gà nước, chim, cò từ đâu bay đến, nhảy nhót, hót líu lo làm nên một không gian sinh động.

Bến Ninh Kiều là nơi khởi đầu chuyến hành trình khám phá vùng sông nước của du khách. ảnh: Trang Linh.

Lễ hội Roóng Poọc

Vào ngày thìn tháng Giêng âm lịch hàng năm, người Giáy ở xã Tả Van, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai lại tổ chức lễ hội Roóng Poọc (lễ hội xuống đồng) để cầu mùa màng bội thu, người yên vật thịnh, mưa thuận gió hòa

Người Giáy tổ chức lễ hội Roóng Poọc tại thung lũng Mường Hoa thuộc xã Tả Van, cách thị trấn Sa Pa khoảng 10 km. Từ sáng sớm, từng đoàn người tíu tít nói cười, hồ hởi về dự hội. Người Mông từ Hầu Thào, Lao Chải dồn xuống, người Dao từ Bản Hồ, Bản Phùng ngược lên, du khách từ thị trấn Sa Pa cũng tới dự làm cho lễ hội đông vui tới hàng nghìn người.

Địa điểm mở hội là một khu ruộng tương đối bằng phẳng phía đầu bản. Để tượng trưng cho sự no ấm, các già làng đặt đĩa trứng luộc nhuộm đỏ, đĩa đồ trang sức bằng bạc, xôi đỏ, quả còn do các cô gái chưa chồng đặt lên bàn thờ để cúng thần, cầu mùa. Thầy mo (thầy cúng) mặc áo dài cài khuy cẩn thận, thắp hương rồi khấn bằng tiếng dân tộc, có nghĩa cả làng, cả bản xuống đồng, ra bãi. Mời thần làng về ngự. Giữ cho bản làng được người yên vật thịnh... Khi lễ cúng kết thúc là dàn nhạc trống, chiêng, điệu kèn pí lè tấu lên thông báo các trò chơi mang tính nghi lễ tượng trưng bắt đầu.

Lễ hội Roóng Poọc được bắt đầu bằng một lễ cúng với nhiều thứ lễ vật.

Suối khoáng nóng Tháp Bà

Cách trung tâm thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa khoảng 4 km về phía Bắc, sau lưng Tháp Bà Ponagar cổ kính và huyền bí là Trung tâm Du lịch Suối khoáng nóng Tháp Bà - Nha Trang, một điểm đến hấp dẫn đối với nhiều du khách mỗi khi đến thăm thành phố biển Nha Trang 

Thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho nơi đây một dòng suối nước khoáng mặn được lấy từ độ sâu hơn 100m trong lòng đất. Con suối khoáng nóng giàu clorua natri silic cùng nhiều nguyên tố vi lượng khác nên không chỉ vừa đảm bảo vệ sinh mà còn vừa có lợi cho sức khỏe của con người.


Du khách có thể thoải mái lựa chọn cho mình một trong số nhiều dịch vụ chăm sóc sức khỏe đặc biệt để được tận hưởng cái cảm giác thư giãn đầy sảng khoái từ thiên nhiên như tắm bùn tại VIP SPA, tắm bùn Tiên Sa, tắm hoa, tắm thảo dược, bơi trong hồ nước khoáng ấm, massage thư giãn…



Tận hưởng cảm giác thư giãn dưới dòng suối khoáng nóng giữa thiên nhiên hoang sơ.

Xe lửa cổ Đà Lạt

Lâu nay du khách đến Đà Lạt muốn dạo chơi phố núi thường đi bộ, đạp xe đạp, đi xe ngựa hoặc chạy vespa cổ... nay lại có thêm thú đi xe lửa cổ. Ngồi trên những toa tàu hỏa cổ chạy từ từ men theo các triền núi, trại hoa, xóm làng, đồi thông... du khách sẽ có cơ hội được khám phá thêm nhiều vẻ đẹp đầy quyến rũ ở thành phố trên cao nguyên này. 

Nhằm biến Đà Lạt thành một thiên đường nghỉ dưỡng ở xứ Đông Dương, năm 1908, người Pháp đã cho xây dựng một tuyến đường sắt dài 84 km từ thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (tỉnh Ninh Thuận) lên Đà Lạt nằm ở độ cao 1.500m so với mực nước biển. Để đoàn tàu có thể lên được độ cao ấy người ta đã thiết kế thêm những đoạn đường sắt có răng cưa nhằm tạo độ bám cho tàu. Và đây cũng chính là loại đường sắt độc đáo nhất thế giới thời bấy giờ.



Chiếc đầu máy tàu hỏa cổ chạy bằng hơi nước ở ga Đà Lạt.

Chiếu dời đô

Cuộc thiên đô vĩ đại của vua tôi nhà Lý vào mùa thu năm 1010 từ cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (Hà Nội ngày nay) gắn liền với câu chuyện ra đời của bản "Chiếu dời đô" nổi tiếng do chính tay vua Lý Công Uẩn ban hành.

Sử cũ kể rằng, mùa xuân năm Canh Tuất (1010), nhân chuyến xa giá về châu Cổ Pháp (nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) để ban tiền, lụa cho các bậc bô lão trong vùng, Đức Thái Tổ Lý Công Uẩn đã tự tay viết "Chiếu dời đô" bàn về việc dời đô từ Hoa Lư lên thành Đại La. Cũng theo sử cũ kể lại, mùa thu, tháng 7 năm 1010, vua Lý Công Uẩn từ thành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ ở thành Đại La. Lúc đoàn thuyền ngự vừa cập bến thành Đại La thì thấy rồng vàng bay lên, vua thấy thế cho là điềm lành nên ra lệnh đổi tên Đại La thành Thăng Long.

Tượng vua Lý Công Uẩn (tại Hà Nội) trong tư thế tay phải cầm “Chiếu dời đô”, tay trái chỉ về đất Thăng Long. 

Chùa Cầu Đông

Trên phố Hàng Đường (phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) có một ngôi chùa mang đậm nét kiến trúc cổ kính - chùa Cầu Đông. Đặc biệt hơn cả, đây là nơi duy nhất ở Hà Nội thờ Thái sư Trần Thủ Độ, vị khai quốc triều Trần (1225-1400).

Chùa Cầu Đông còn có tên là chùa Đông Môn, xưa thuộc tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương. Tương truyền, chùa được dựng vào đời nhà Lý (1010-1225) và trải qua nhiều lần trùng tu. Ngày xưa, ở đây có “Cầu Đông” - chiếc cầu đá bắc qua sông Tô Lịch và “Cửa Đông” - cửa tường thành phía Đông của Hoàng thành Thăng Long nên người xưa đặt tên cho chùa là Cầu Đông để dễ dàng phân biệt với các ngôi chùa khác. Hiện chùa còn lưu giữ được nhiều tấm bia cổ, trong đó, bia dựng năm Vĩnh Tộ thứ 6 (1624) có ghi lại nhiều việc chính như mua thêm đất, mở rộng khuôn viên và mở mang chùa. 

Cổng tam quan chùa Cầu Đông.