Một ngày giáp tết, tôi dắt thằng cháu ngoại thủng thẳng đi dạo loanh quanh vài vòng chợ Tân Châu. Chủ ý xem thiên hạ chuẩn bị vui xuân, mua sắm thế nào. Những ngày này ai cũng nao nức đi đây đi đó nên hai bên hè phố người đông như nước chảy.
Có đoạn từ lề đường, nhiều người tràn xuống cả mặt đường. Kẻ bán chen nhau bày bán la liệt những món đặc sản tết; người mua chen nhau mua như sợ hết thứ mình cần mua. Đang mải mê nhìn ngó, tôi chợt thấy một chị đầu trùm khăn rằn kín mít, hai tay giơ cao hai chùm chim cuốc dễ đến mấy chục con. Con xoã đôi cánh xác xơ những chiếc lông rách rưới, con nhắm nghiền hai mắt như là cam chịu, con mở to đôi tròng lay láy ngơ ngác như là muốn hỏi: tại sao các người độc ác thế này? Con há mỏ chừng như ngạt thở. Con nào cũng giống nhau một vẻ tội nghiệp không một tiếng kêu. Chị ta lơ lớ cất tiếng rao khàn khàn: “cuốc… cuốc, chim cuốc… ai mua…”. Thật chẳng lời nào tả được nỗi lòng thương cảm trong tôi lúc ấy. Đã hơn nửa đời người xa quê, luôn day dứt nhớ nhung những buổi chiều xưa thổn thức ngồi nghe hồi hồi chim cuốc mòn đêm da diết vòng vọng giữa đồng không mông quạnh. Đến tận bây giờ, đã cận cái tuổi gần đất xa trời, trong sâu lắng nỗi niềm tha hương, thẳm sâu trong cõi hồn tôi vẫn cứ hằng đêm vang vọng từng tràng tiếng cuốc quê xưa chói lói gọi người.
Những năm niên thiếu sống ở làng, tiếng cuốc kêu và tập tính loài chim cuốc, với chúng tôi vô cùng gần gũi, thân thiết. Tiếng chim cuốc không du dương thánh thót. Nhưng ta hãy thử một lần ngồi một mình lẳng lặng lắng nghe rồi thả hồn mình theo từng hồi những tiếng gọi rất xa, rất xa: cờ ruốc… cuốc… cuốc… Khi tách bạch từng tiếng một. Khi đan quyện hoà nhau thành cơn gió âm thanh ào ạt, dập dờn dội từ bóng tối bờ tre đầu xóm chạm vào thính giác, chạm vào xúc giác rồi thâm thấm khắp lục phủ ngũ tạng, hốt nhiên, ta ngộ ra dường như đấy là tiếng lòng ai đó mà ta rất đỗi thương yêu dội lên từ trong tiềm thức rất đỗi mơ hồ. Giữa bát ngát trăng thanh, giữa mênh mang đồng nội, giữa vô tận trời mây, tiếng cuốc gọi nhau hay gọi ai mà nghe da diết, mà nghe khắc khoải một bầu tâm sự khôn nguôi nhung nhớ hắt hiu, mà nôn nao khơi gợi những chân trời khát vọng trong ta, trong lồng lộng hồn người đang tuổi lên chín, lên mười đầy ắp mộng mơ phiêu lưu xứ lạ.
“Ai xui con cuốc gọi vào hè”, câu thơ cổ trong tập giáo khoa thư lớp Đồng ấu tôi đã thuộc làu làu và đã nằm trong lòng tôi không chút phai mờ đến tận bây giờ, tận cái tuổi chơm chớm tám mươi răng long, bạc râu bạc tóc. Bởi nó là bài học nhập môn vỡ lòng văn chương của thế hệ tôi. Cũng bởi những tiếng cuốc gọi hè thuở ấy không đêm nào không vang vọng trên khắp nẻo làng xa, khắp cánh đồng gần. Nó thân thuộc như một phần đời sống tinh thần làng quê xưa cũ. Phải sống với đồng quê, được nhiều lần ngồi tĩnh tại hàng giờ lắng nghe cuốc gọi, mới thấy được cái tài tình của tác giả bài thơ đã chọn được động từ cuốc gọi thay cho cuốc kêu. Mới ngộ ra cái linh thiêng của tiếng con cuốc cuốc được cho là tiếng hồn Thục Đế nhớ thương nước cũ đã về tay quân giặc, đêm đêm lang thang thống thiết gọi nước, gọi nhà, đớn đau đến độ tự cào rách họng, trào vọt máu tươi mà chết. Thực tế chưa có ai trông thấy con cuốc nào dùng móng nhọn của mình cào họng đến chết. Cũng như chưa hề có ai bắt gặp con cuốc nào chết rũ giữa bụi tre già. Vậy mà dân gian vẫn lưu truyền câu chuyện một anh nông dân trong một buổi cày, trông thấy xác một con chim cuốc chết khô treo đu đưa trên cành tre đầu ruộng. Tò mò, anh ta giơ chiếc roi đánh trâu chọc vào thân chim cho rụng xuống. Một phép lạ đã lập tức xảy ra. Chỉ một roi quất mông trâu, con trâu vốn hung dữ ương bướng bỗng trở nên ngoan ngoãn nghe lời, chăm chỉ kéo cày thuần thục không cần người cày quát tháo. Trên đường về nhà, chiếc roi ấy của anh vô ý quệt vào cô con gái xinh đẹp của nhà bá hộ. Khiến cho cô ta mang bệnh tương tư một hai đòi lấy bằng được anh thợ cày nghèo khổ. Từ đấy mới lan truyền câu chuyện ai tìm được xác con chim cuốc chết rũ treo cành tre thì được sở hữu lá bùa tình yêu vô cùng linh diệu. Thú thật thời niên thiếu tôi và các bạn tôi đã nhiều lần mất nhiều công sức nghển cổ săm soi các rặng tre già vòng quanh những con đường làng, mong tìm được xác con cuốc chết rũ để làm lá bùa tình yêu kỳ diệu. Bây giờ nghĩ lại, thấy là trẻ con vớ vẩn. Nhưng nhờ vậy mà kỷ niệm tuổi thơ của chúng tôi thêm long lanh đẹp đẽ biết bao nhiêu.
Ngày xưa, tôi chưa được một lần cầm trong tay một con chim cuốc nào. Nhưng đã được nhiều lần trông thấy khi một đàn, khi một con đơn độc cúi cúi cái đầu nhỏ bé lủi lủi trong lùm cỏ rậm dưới những rặng tre vây kín rìa làng. Chưa bao giờ tôi thấy một chú cuốc nào xênh xang bay lượn trên trời cao như những con cò con vạc hoặc đường hoàng kiếm ăn trên đất trống. Hình như cả đời chúng luôn sống trong trạng thái bất an, sợ sệt một kẻ thù vô hình nào nào đó. Có thể đặc tính loài chim cuốc không thể bay cao. Chúng chỉ biết chấp chới vỗ đôi cánh đen đen màu đất là là lượn một đoạn ngắn mỗi khi bị xua đuổi bất ngờ. Qua cơn nguy hiểm chúng lại tìm bụi cỏ gần đấy lủi sâu vào trong đó. Quả thật chỉ nhìn con chim cuốc, màu lông thì xin xỉn lem luốc, thân hình thì gầy guộc còm nhom, cử chỉ thì lấp ló hèn hèn chẳng gợi cho ta một chút cảm tình. Ấy vậy mà những chú cuốc đã hiện vào thơ văn kim cổ bằng những tên chim quyên hay đỗ quyên sang trọng với những mỹ từ ngợi ca đẹp đẽ đến nao lòng. Có lẽ thân phận thì thấp hèn vậy nhưng tiếng kêu, tiếng gọi của chúng vừa bền bỉ, vừa diết da từ thâu đêm đến suốt sáng đã tấu lên được bao nỗi niềm khắc khoải thấu cảm chạm đến những cuộc đời oan khuất, những kiếp người bé mọn luôn chịu khổ đau, luôn chịu thiệt thòi từ kim chí cổ. Và có thể còn muôn đời sau nữa cũng nên.
Tôi là kẻ trọn đời tha hương. Mỗi lần nhớ quê lại nôn nả tìm về. Mỗi lần về sau là mỗi thấy vắng thưa dần tiếng cuốc. Cứ từng chùm chim cuốc thản nhiên hiện diện nơi chợ búa thế này, cứ đà phát triển nông thôn hoá đô thị lộn xộn thế này thì những tràng cuốc gọi thao thức hằng đêm sẽ chỉ còn trong ký ức những người già nặng niềm hoài cổ.
Và con cháu chúng ta cũng sẽ chỉ còn nghe tiếng cuốc gọi rất xa vắng, rất mơ hồ trong những áng văn chương một thuở đã xa. Và thực tế bây giờ, mỗi lần về thăm lại quê xưa, bọn già chúng tôi đã phải cô đơn đứng giữa cánh đồng làng bé tẹo mà đau đớn thốt lên tiếng gọi: Cuốc ơi! Cuốc ơi, vì đâu nên nỗi?
Một giống loài hiền lành chẳng làm hại một chân tơ kẽ tóc con người, từ bao đời nay luôn là bạn tâm giao gần gũi với chúng ta bằng những tiếng gọi hằng đêm thao thiết, vậy mà đang phải chịu cảnh bị con người săn bắt đến tận diệt chỉ với mục đích đưa chúng lên bàn nhậu.
Mai kia chúng ta rồi sẽ buồn tẻ biết bao khi đời sống tắt hẳn những tiếng cuốc cuốc nhói lòng đêm đêm khắc khoải gọi người.
… Cuốc ơi! Cuốc ơi, vì đâu nên nỗi?
Vũ Thiện Khái
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét