9 thg 2, 2013

Tu viện Tả Phìn

Tu viện Tả Phìn (bản Tà Phìn, xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai) là tu viện bỏ hoang, rêu phong nhưng vẫn đẹp kì bí với những đường nét mang đậm phong cách kiến trúc thời thuộc Pháp.

Đường đến bản Tả Phìn quanh co uốn lượn cách thị trấn Sa Pa khoảng 12km, đoạn đường ngắn đủ để khách du lịch có thể đi bằng xe máy để thoả sức ngắm nhìn núi rừng Tây Bắc nhất là dịp xuân về. Tu viện cổ này nằm dưới chân núi, được xây năm 1942. Đây từng là nơi tu hành của 12 nữ tu theo lối khổ hạnh thuộc dòng Nữ tu của Hội thánh Kito cải giáo sinh hoạt truyền đạo. Năm 1945, do tình hình chiến tranh, đoàn nữ tu rời về Hà Nội, tu viện vì thế mà bị bỏ hoang thành phế tích cho đến ngày nay. 

Tu viện có nhiều cửa, mỗi loại cửa lại có hình dáng khác nhau, lúc hình vòm, lúc hình chữ nhật.

Thánh địa Mỹ Sơn

Năm 1999, tại phiên họp lần thứ 23, Khu di tích Mỹ Sơn của Việt Nam đã được Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vì di sản này là một ví dụ điển hình về sự trao đổi văn hóa và là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất.

Khu di tích Mỹ Sơn - Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách Tp. Đà Nẵng 69km, cách thị xã Hội An 42km và cách thành cổ Trà Kiệu 30km. 

Thánh địa Mỹ Sơn là tổ hợp gồm nhiều đền đài của vương quốc Champa, nằm lọt trong một thung lũng nhỏ có đường kính khoảng 2km, được bao quanh bởi núi đồi, chỉ có một lối vào duy nhất là con đường độc đạo nằm giữa hai quả đồi và một con suối chắn ngang trước mặt con đường vào thung lũng như một chiến hào sâu rộng, gây trở ngại cho những ai muốn vào thánh địa. 

Thánh địa Mỹ Sơn là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Champa và là nơi đặt lăng mộ của các vị vua hay hoàng thân quốc thích Champa. Thánh địa Mỹ Sơn là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á.

Một góc quần thể Thánh địa Mỹ Sơn.

Kỳ thú vịnh Vĩnh Hy

Vịnh Vĩnh Hy là địa danh du lịch nổi tiếng của tỉnh Ninh Thuận với hình ảnh một bên là vịnh biển trong xanh, êm ả, một bên là rừng núi bạt ngàn với những dãy núi cao chót vót và nhiều hang động kì bí... tạo khung cảnh vừa nên thơ vừa hùng vĩ.

Vịnh Vĩnh Hy thuộc làng Vĩnh Hy, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, cách trung tâm thành phố Phan Rang (tỉnh Ninh Thuận) chừng 40km. Từ Phan Rang, du khách sẽ lên thuyền thực hiện hành trình khám phá vịnh Vĩnh Hy. Thuyền đưa du khách từ từ rẽ sóng hướng ra biển, đến với vịnh Vĩnh Hy trong mênh mang trời xanh, nước biếc. Vịnh Vĩnh Hy được bao bọc bởi những ngọn núi có nhiều hang động kì thú, khí hậu thiên nhiên trong lành, đặc biệt là làn nước xanh và trong đến mức bạn có thể nhìn thấy từng đàn cá cơm bơi quanh mạn thuyền. 



Một góc vịnh Vĩnh Hy thơ mộng, thiên nhiên trong lành.

Khám phá Vườn Quốc gia Tràm Chim

Cứ mỗi độ nước lên, vào khoảng từ tháng 8 đến tháng 11 âm lịch, về thăm Vườn Quốc gia Tràm Chim ở huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, du khách lại có dịp tham quan bằng tắc ráng (xuồng máy nhỏ) trên bao la sông nước, bao quanh rừng tràm xanh ngút ngàn cùng hệ động, thực vật phong phú.

Vườn Quốc gia Tràm Chim là khu du lịch sinh thái từ lâu đã nổi tiếng là “ốc đảo xanh” với cảnh quan thiên nhiên đặc trưng cho vùng đất trũng Đồng Tháp Mười. Nơi đây quần tụ rất nhiều loài thực vật, cùng gần 200 loài chim nước, chiếm khoảng một phần tư số loài chim ở Việt Nam, trong đó có nhiều loài chim quý hiếm trên thế giới. 

Sếu đầu đỏ nhảy múa trên trảng cỏ ở Vườn Quốc gia Tràm Chim. Ảnh: Kim Sơn.

Nhã nhạc cung đình Huế

Nhã nhạc cung đình Huế là loại hình âm nhạc chính thống, được xem là quốc nhạc của nhà Nguyễn (1802-1945). Nhã nhạc thường được dùng để biểu diễn trong các ngày lễ trọng của Hoàng cung như: Tế Nam Giao, Tế Xã Tắc, mừng đăng quang, mừng thọ vua, tiếp đón các sứ thần… Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.

Nhã nhạc là loại hình âm nhạc cung đình nên lời lẽ tao nhã, điệu thức cao sang, quý phái. Nó biểu tượng cho vương quyền về sự trường tồn, hưng thịnh của triều đại. Vì vậy, Nhã nhạc được các triều đại quân chủ Việt Nam rất coi trọng. Theo sử sách, Nhã nhạc Việt Nam có từ thời Lý (1010-1225) nhưng phát triển mạnh và bài bản nhất là vào thời nhà Nguyễn (1802 - 1945). Nhã nhạc thời Nguyễn thường được gọi là Nhã nhạc cung đình Huế vì triều đại này đóng đô ở Huế suốt gần 150 năm.

Huế - Diễm lệ những công trình

Cố đô Huế không chỉ nổi tiếng bởi vẻ đẹp của những tòa cung điện nguy nga tráng lệ mà còn ở nét diễm lệ của những công trình lăng tẩm, đình đền, chùa chiền… cổ kính nằm hòa mình duyên dáng trong một vùng cảnh quan thiên nhiên thơ mộng.

Nói đến các công trình kiến trúc cổ của Huế không thể không nhắc đến hệ thống lăng tẩm, nơi yên nghỉ của các vị vua triều Nguyễn. Mỗi công trình là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mĩ bởi chúng không chỉ thể hiện khả năng tài hoa của người thợ xứ Huế mà còn phản ánh cả cá tính mỗi vị vua lúc sinh thời.

Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ khi hoàng đế Gia Long lên ngôi vào năm 1802 và kết thúc vào năm 1945 khi hoàng đế Bảo Đại tuyên bố thoái vị, tổng cộng là 143 năm với 13 đời vua. Hiện nay, ở Huế vẫn còn lại 7 khu lăng tẩm của 7 vị vua triều Nguyễn, trong đó đáng chú ý như lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức...

Nằm cách trung tâm thành phố Huế chừng 16km về phía Tây Nam, giữa một vùng quần sơn gồm 42 ngọn núi lớn nhỏ thuộc xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế có lăng Gia Long (còn gọi là Thiên Thọ Lăng). Đây là nơi yên nghỉ của vua Gia Long (1762 - 1820), vị vua đầu tiên trong số 13 đời vua nhà Nguyễn.

Hội đền Hai Bà Trưng

Xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội là quê hương của Hai Bà Trưng (hai nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc và Trưng Nhị), cũng là nơi Hai Bà xưng vương, lập đô sau khi đánh tan giặc ngoại xâm những năm đầu công nguyên (40 - 43). Để tưởng nhớ công ơn Hai Bà, hàng năm, tại đây, vào ngày 6 tháng Giêng âm lịch, người dân địa phương lại tổ chức lễ hội.

Lễ hội mở đầu bằng đám rước kiệu vua Bà, voi chiến cùng lễ vật từ đình Hạ Lôi về Khu di tích đền thờ Hai Bà Trưng. Đám rước diễn ra tưng bừng, náo nhiệt, đi trong cờ quạt rực rỡ, trong tiếng trống, thanh la và phường bát âm réo rắt trúc tơ. Những bô lão đầy uy tín, đức độ của làng được chọn ra đánh trống, chiêng ngày hội. Hai cỗ kiệu rước Hai Bà do những thiếu nữ thanh tân, trẻ đẹp, khỏe mạnh, tháo vát của làng khiêng. Hai bên đường, người dân địa phương bày bàn thờ lễ vật trước cửa nhà, làm lễ vọng đón đoàn rước đi qua. Ai nấy đều thành kính, tưởng nhớ tới công ơn của Hai Bà đã phất cờ khởi nghĩa, giành độc lập cho dân tộc. Phần lễ kết thúc, phần hội diễn ra với những điệu múa dân gian, đấu vật, những trò chơi truyền thống của dân tộc như: đánh đu, đập niêu đất…

Đoàn rước hội đền Hai Bà Trưng.

Du ngoạn Ngũ Hành Sơn

Cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng bảy cây số, Ngũ Hành Sơn là chốn thiền môn hoang sơ, tĩnh lặng, thu hút du khách đến khám phá, chiêm nghiệm, thoát ra khỏi cuộc sống ồn ào của phố thị.

Ngũ Hành Sơn là năm ngọn núi vươn ra như năm ngón tay có tên theo ngũ hành: Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn và Thổ Sơn. Những ngọn núi ấy thành tên từ thế kỷ 19 do vua Minh Mạng đặt. Có nhiều truyền thuyết về sự hình thành Ngũ Hành Sơn, trong đó có chuyện kể rằng: Ngày xưa, nơi đây là vùng biển hoang vu, chỉ có một ông già sống đơn độc trong túp lều tranh. Một hôm, trời đang sáng bỗng nhiên tối sầm, giông bão nổi lên, một con giao long rất lớn xuất hiện vùng vẫy trên bãi cát và một quả trứng khổng lồ. Lát sau, một con rùa vàng xuất hiện, tự xưng là thần Kim Quy, đào cát vùi quả trứng xuống và giao cho ông già nhiệm vụ bảo vệ giọt máu của Long Quân.

Quả trứng càng ngày càng lớn, nhô lên cao, chiếm cả vùng đất rộng lớn. Vỏ trứng ánh lên đủ màu sắc xanh, đỏ, trắng, vàng, tím, lấp lánh như hòn gạch khổng lồ. Hôm khác, ông lão vừa chợp mắt thì nghe có tiếng lửa cháy, trong lòng trứng xuất hiện một cái hang rộng rãi, mát mẻ. Ông cầu cứu móng rùa- vật mà thần Kim Quy đã giao lại cho ông lúc ra đi rồi đặt lưng xuống ngủ thiếp luôn. Ông không biết đang xảy ra phép lạ: một cô gái xinh xắn bước ra từ trong trứng và nơi ông nằm là một trong năm hòn cẩm thạch vừa được hình thành từ năm mảnh vỏ trứng, sau thành năm 5 ngọn núi Ngũ Hành Sơn như bây giờ. 

Đường lên Ngũ Hành Sơn đi giữa những vách đá đầy màu sắc.

Huế di sản văn hóa thế giới

Trong quần thể những công trình kiến trúc của Huế được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hóa thế giới, cụm kinh thành Huế được đánh giá là một quần thể kiến trúc đồ sộ và có giá trị hơn cả.

Nghiêng mình bên dòng Hương Giang xanh hiền hòa của mền Trung ruột thịt, thành phố mà chúng ta đang nói đến mang một cái tên đơn âm nôm na như bao làng mạc cổ Việt Nam: Huế. Trải bao thăng trầm lịch sử, tên những làng mạc cổ dần dần chìm khuất, nhưng Huế vẫn giữ nguyên cái tên “cúng cơm” ban đầu của mình để đi vào thế giới hiện đại.

Thành phố không lớn, nằm trên một dải đất hẹp, nắng mưa khắc nghiệt, ít được thiên nhiên ưu đãi nhất miền Trung, thế nhưng nơi đây từ thời Chúa Nguyễn đã được chọn làm thủ phủ xứ “Đàng Trong”. Từ năm 1635 – 1687, Chúa Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần dựng phủ ở Kim Long; từ 1688 đến 1774 Chúa Nguyễn Phúc Thái và Nguyễn Phúc Khoát dời phủ về Phú Xuân. Đến thời Tây Sơn, Huế vẫn được vua Quang Trung chọn làm kinh đô.

Toàn cảnh quần thể kiến trúc kinh thành Huế nhìn từ trên cao. Ảnh: Tư liệu của Mạnh Thường.

8 thg 2, 2013

Độc đáo Nhà Trăm Cột

Ở tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông, thuộc xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đước, tỉnh Long An, Nhà Trăm Cột là công trình kiến trúc điêu khắc cổ mang phong cách “nhà rường” Huế điển hình nằm lọt giữa vùng quê Nam Bộ đã có từ hơn 100 năm nay. Công trình đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch - PV) xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia năm 1997... 

Ngôi nhà này được khởi công vào năm 1901, đến năm 1903 thì hoàn thành và năm 1904 thì xong phần chạm khắc trang trí do nhóm 15 thợ từ làng Mỹ Xuyên - làng chạm khắc mộc nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế thực hiện bằng chất liệu chủ yếu là các loại gỗ quý như cẩm lai, mun... Với diện tích 882m2, Nhà Trăm Cột tọa lạc trên một khu vườn rộng 4.044m2, chính diện quay về hướng Tây Bắc. Nhà làm bằng các loại gỗ cẩm lai, gõ đỏ, gõ mật; mái lợp ngói âm dương, nền nhà bằng đá tảng cao 0,9m, mặt nền lát gạch Tàu lục giác. Nhìn trên bình đồ, Nhà Trăm Cột có kiểu chữ “Quốc”, 3 gian, 2 chái. 

Nhà Trăm Cột mang phong cách “nhà rường” Huế.