Việc bảo vệ dòng sông Cầu không đơn thuần chỉ là nhiệm vụ của các ngành chức năng. Cần lắm sự vào cuộc của mỗi người dân để dòng sông giữ mãi vẻ trong xanh, phục vụ bền vững cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của một nửa dân số tỉnh Bắc Kạn.
Trong hành trình tới xã Rã Bản (Chợ Đồn) chúng tôi đã rất đồng tình với việc làm của UBND xã. Theo đồng chí Triệu Văn Nguyên- Chủ tịch UBND xã, xã thường xuyên phổ biến, đôn đốc người dân các thôn tập trung thu gom, phân loại rác tại từng hộ gia đình. Rác hữu cơ để phân hủy làm phân bón, rác vô cơ thì đốt tập trung tránh tình trạng vứt bừa bãi xuống sông Cầu. Một việc làm nhỏ ấy lại mang ý nghĩa to lớn trong bảo vệ dòng sông cần được các xã trong lưu vực sông Cầu học tập.
22 thg 4, 2020
Ký sự sông Cầu (kỳ 3): Dòng sông kêu cứu
Lời kể của các cụ cao niên về độ cạn kiệt của dòng sông Cầu đang gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh. Dòng sông qua thi ca, đoạn chảy qua vùng đất Bắc Kạn đang đứng trước sự xâm hại từ nhiều phía. Sông đang lên tiếng cầu cứu con người phải biết trân trọng, bảo vệ...
Ông Đặng Văn Oanh, thôn Nà Cà 1, xã Cao Kỳ (Chợ Mới) là một tay đánh cá lão làng trên sông Cầu. Cuộc mưu sinh bằng nghề chài, lưới trên sông đã giúp ông và gia đình vượt qua những ngày gian khó nhất của thời kinh tế khó khăn. Cho tới tận bây giờ tôm, cá đánh bắt được trên sông trở thành đặc sản thì giá lại càng đắt đỏ. Thế nhưng, đánh bắt tôm, cá bây giờ chẳng còn dễ như xưa.
Ông Oanh buồn nói: Những năm trước đi quăng đánh cá một lúc là đầy giỏ, còn giờ trắng đêm có khi chỉ đủ bữa ăn cho gia đình. Có nhiều loài cá đã biến mất, chẳng còn thấy bao giờ. Đang vá lại cái chài đánh cá bỏ lâu rồi bị chuột cắn rách ông bảo: Cứ thế này thì gay!
Ông Đặng Văn Oanh, thôn Nà Cà 1, xã Cao Kỳ (Chợ Mới) là một tay đánh cá lão làng trên sông Cầu. Cuộc mưu sinh bằng nghề chài, lưới trên sông đã giúp ông và gia đình vượt qua những ngày gian khó nhất của thời kinh tế khó khăn. Cho tới tận bây giờ tôm, cá đánh bắt được trên sông trở thành đặc sản thì giá lại càng đắt đỏ. Thế nhưng, đánh bắt tôm, cá bây giờ chẳng còn dễ như xưa.
Ông Oanh buồn nói: Những năm trước đi quăng đánh cá một lúc là đầy giỏ, còn giờ trắng đêm có khi chỉ đủ bữa ăn cho gia đình. Có nhiều loài cá đã biến mất, chẳng còn thấy bao giờ. Đang vá lại cái chài đánh cá bỏ lâu rồi bị chuột cắn rách ông bảo: Cứ thế này thì gay!
Ký sự sông Cầu (kỳ 2): Cuộc sống bên dòng sông
Cũng như những dòng sông khác, những bản làng, cánh đồng bên bờ sông Cầu đoạn qua Bắc Kạn thật êm đềm, trù phú. Nhưng bên trong của nó cũng đã phải trải qua những biến cố dữ dội. Dòng sông mang phù sa bồi đắp cho những cánh đồng màu mỡ và cũng có lúc nó ồn ào, hung dữ tàn phá đôi bờ. Có người bảo đấy là dòng sông trả hận việc con người tàn phá rừng thượng nguồn.
Lưu vực sông Cầu trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn có diện tích là 1.372,78 km2, bao gồm 44 xã, phường, thị trấn. Dân số trong lưu vực là 153.096 người (bằng một nửa dân số toàn tỉnh), tỷ lệ gia tăng dân số khoảng 0,63%, dân số khu vực đô thị có xu hướng tăng lên hàng năm. Cơ cấu lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản và dịch vụ; trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng chỉ chiếm 6,3%. Lao động ở khu vực nông thôn chủ yếu là làm ruộng gắn với chăn nuôi, làm vườn và dịch vụ.
Sông Cầu là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho tưới tiêu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, với tổng lượng nước hàng năm ước tính khoảng 20 triệu m3, một số dòng chảy được sử dụng cho mục đích sinh hoạt, sản xuất điện ( hồ Thuỷ điện Nặm Cắt có diện tích mặt nước trên 200ha). Những con số khô khan ấy đủ cho thấy dòng sông Cầu có ý nghĩa lớn như thế nào đối với sản xuất và đời sống của nhân dân tỉnh Bắc Kạn.
Lưu vực sông Cầu trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn có diện tích là 1.372,78 km2, bao gồm 44 xã, phường, thị trấn. Dân số trong lưu vực là 153.096 người (bằng một nửa dân số toàn tỉnh), tỷ lệ gia tăng dân số khoảng 0,63%, dân số khu vực đô thị có xu hướng tăng lên hàng năm. Cơ cấu lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản và dịch vụ; trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng chỉ chiếm 6,3%. Lao động ở khu vực nông thôn chủ yếu là làm ruộng gắn với chăn nuôi, làm vườn và dịch vụ.
Sông Cầu là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho tưới tiêu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, với tổng lượng nước hàng năm ước tính khoảng 20 triệu m3, một số dòng chảy được sử dụng cho mục đích sinh hoạt, sản xuất điện ( hồ Thuỷ điện Nặm Cắt có diện tích mặt nước trên 200ha). Những con số khô khan ấy đủ cho thấy dòng sông Cầu có ý nghĩa lớn như thế nào đối với sản xuất và đời sống của nhân dân tỉnh Bắc Kạn.
Ký sự sông Cầu (kỳ 1): Về nơi đầu nguồn
Đi vào lịch sử, đi vào thơ ca, âm nhạc và đi vào nỗi nhớ của những người con xa quê hương. Đối Bắc Kạn, sông Cầu là sự gắn kết bao đời nay, nuôi sống hàng vạn con người. Hành trình khám phá dòng sông trên địa phận Bắc Kạn chưa được nhiều, nhưng thực sự đã đem lại cho tôi những điều mới mẻ.
Kỳ 1: Về nơi đầu nguồn
Sông Cầu, miền xuôi còn gọi sông Như Nguyệt, là con sông quan trọng nhất trong hệ thống sông Thái Bình, có ý nghĩa to lớn với đồng bằng sông Hồng và lưu vực của nó. Khởi nguồn từ Bắc Kạn con sông hiền hòa uốn mình chảy về miền xuôi qua 6 tỉnh...
Đường về Chợ Đồn theo tuyến tỉnh lộ 257 giờ đã thuận tiện, dễ dàng. Con đường đang sắp hoàn thành cải tạo, bon bon xe chạy. Nơi thượng nguồn sông Cầu, núi non hùng vĩ, sông chẻ núi mà đi, uốn khúc quanh co, có đoạn chảy qua thác ghềnh dữ dội.
Kỳ 1: Về nơi đầu nguồn
Sông Cầu, miền xuôi còn gọi sông Như Nguyệt, là con sông quan trọng nhất trong hệ thống sông Thái Bình, có ý nghĩa to lớn với đồng bằng sông Hồng và lưu vực của nó. Khởi nguồn từ Bắc Kạn con sông hiền hòa uốn mình chảy về miền xuôi qua 6 tỉnh...
Đường về Chợ Đồn theo tuyến tỉnh lộ 257 giờ đã thuận tiện, dễ dàng. Con đường đang sắp hoàn thành cải tạo, bon bon xe chạy. Nơi thượng nguồn sông Cầu, núi non hùng vĩ, sông chẻ núi mà đi, uốn khúc quanh co, có đoạn chảy qua thác ghềnh dữ dội.
Giá trị văn hóa độc đáo chùa làng Vẽ
Chùa Vẽ thuộc làng Vẽ, phường Thọ Xương, TP Bắc Giang (Bắc Giang) hiện còn bảo lưu nhiều giá trị di sản văn hoá độc đáo.
Năm 2018, khi tu sửa chùa, người dân địa phương đã phát hiện 3 bệ chân tảng đá hoa sen mang phong cách thời Trần (thế kỷ XIII-XIV) dưới phần nền toà Tam bảo. Bệ đá chân tảng có cạnh hình vuông, chất liệu đá xanh, bề mặt trang trí hình hoa sen được bố cục các cánh thành một vòng tròn. Hoa sen bao gồm 16 cánh chính và 16 cánh phụ ở dưới. Viền theo các cánh sen có một đường gờ chìm. Nét chạm tỉ mỉ, tinh tế, tôn lên vẻ cao quý của hoa sen. Điều này mở ra cái nhìn mới về lịch sử chùa Vẽ, có thể ngôi chùa cổ này đã được xây dựng từ thời Trần - khác với trước đây người ta cho rằng chùa Vẽ được xây dựng dưới thời Lê (thế kỷ XVII- XVIII).
Năm 2018, khi tu sửa chùa, người dân địa phương đã phát hiện 3 bệ chân tảng đá hoa sen mang phong cách thời Trần (thế kỷ XIII-XIV) dưới phần nền toà Tam bảo. Bệ đá chân tảng có cạnh hình vuông, chất liệu đá xanh, bề mặt trang trí hình hoa sen được bố cục các cánh thành một vòng tròn. Hoa sen bao gồm 16 cánh chính và 16 cánh phụ ở dưới. Viền theo các cánh sen có một đường gờ chìm. Nét chạm tỉ mỉ, tinh tế, tôn lên vẻ cao quý của hoa sen. Điều này mở ra cái nhìn mới về lịch sử chùa Vẽ, có thể ngôi chùa cổ này đã được xây dựng từ thời Trần - khác với trước đây người ta cho rằng chùa Vẽ được xây dựng dưới thời Lê (thế kỷ XVII- XVIII).
Chùa Vẽ.
Xuân theo sông Thương
Thật đa nghĩa, khi ta nghĩ về tên gọi của dòng sông. Đó là biếc xanh, như trường hợp nói câu “Thương hải biến vi tang điền” (Biển biếc biến thành ruộng dâu) khi sông trong vắt mà róc rách chảy qua vùng đồi núi khởi nguồn Chi Lăng, Hữu Lũng.
Nhưng lại là nhớ thương khi đến chỗ có ngôi làng Thương ở bờ bên phải tòa Phủ Lạng Thương, thì các cuộc tiễn đưa xưa phải chia tay ly biệt người từ kinh đô lên biên ải. Còn lúc biến âm mà nói Thương thành Xương, như khi đọc các địa danh: Thọ Xương, Xương Giang… thì đó lại thành ra là tươi tốt, thịnh giàu.
Nhưng lại là nhớ thương khi đến chỗ có ngôi làng Thương ở bờ bên phải tòa Phủ Lạng Thương, thì các cuộc tiễn đưa xưa phải chia tay ly biệt người từ kinh đô lên biên ải. Còn lúc biến âm mà nói Thương thành Xương, như khi đọc các địa danh: Thọ Xương, Xương Giang… thì đó lại thành ra là tươi tốt, thịnh giàu.
Sông Thương đoạn chảy qua TP Bắc Giang. Ảnh: Hương Giang
19 thg 4, 2020
Khám phá Phia Oắc - Phia Đén
Vườn Quốc gia Phia Oắc - Phia Đén (huyện Nguyên Bình) được ví như một “viên ngọc quý” có giá trị về đa dạng sinh học và địa mạo địa chất mà thiên nhiên ban tặng cho mảnh đất biên cương Cao Bằng.
Phia Oắc - Phia Đén là tên hai đỉnh núi cao nhất trong khu vườn quốc gia. Đỉnh Phia Oắc có độ cao 1.931 m, được ví như "nóc nhà” phía Tây của tỉnh Cao Bằng. Hiện nay, vườn có 496 loài động vật có xương sống, ngoài ra còn hàng nghìn loài động vật không xương sống, côn trùng... Trong số các loài động vật có tên trong danh mục, đã xác định được 58 loài động vật quý hiếm, bao gồm 30 loài thú có tên trong Sách đỏ Việt Nam; 12 loài bò sát, trong đó 3 loài ở thứ hạng cực kỳ nguy cấp; 3 loài ếch nhái, trong đó 2 loài ở thứ hạng cực kỳ nguy cấp. Đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý hiếm, những nguồn gen động vật này có giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn cao.
Nơi đây có cấu tạo địa chất rất đặc biệt với những dãy núi cao, nhiều khoáng sản quý hiếm như vàng, bạc, thiếc, vonphram, quặng uranium... Phia Oắc - Phia Đén vẫn giữ được rừng nguyên sinh, hệ sinh thái đa dạng, nhiều loài động thực vật quý hiếm. Đặc biệt, nơi đây có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, không khí trong lành, mát mẻ, có băng tuyết về mùa đông và là nơi lý tưởng cho phát triển du lịch sinh thái.
Phia Oắc - Phia Đén là tên hai đỉnh núi cao nhất trong khu vườn quốc gia. Đỉnh Phia Oắc có độ cao 1.931 m, được ví như "nóc nhà” phía Tây của tỉnh Cao Bằng. Hiện nay, vườn có 496 loài động vật có xương sống, ngoài ra còn hàng nghìn loài động vật không xương sống, côn trùng... Trong số các loài động vật có tên trong danh mục, đã xác định được 58 loài động vật quý hiếm, bao gồm 30 loài thú có tên trong Sách đỏ Việt Nam; 12 loài bò sát, trong đó 3 loài ở thứ hạng cực kỳ nguy cấp; 3 loài ếch nhái, trong đó 2 loài ở thứ hạng cực kỳ nguy cấp. Đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý hiếm, những nguồn gen động vật này có giá trị kinh tế và giá trị bảo tồn cao.
Nơi đây có cấu tạo địa chất rất đặc biệt với những dãy núi cao, nhiều khoáng sản quý hiếm như vàng, bạc, thiếc, vonphram, quặng uranium... Phia Oắc - Phia Đén vẫn giữ được rừng nguyên sinh, hệ sinh thái đa dạng, nhiều loài động thực vật quý hiếm. Đặc biệt, nơi đây có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, không khí trong lành, mát mẻ, có băng tuyết về mùa đông và là nơi lý tưởng cho phát triển du lịch sinh thái.
Đỉnh Phia Oắc với cung đường uốn lượn giữa rừng già. Ảnh: An Nhiên
Một thoáng Cô Thôn
Mặc cho sự khắc nghiệt của thời gian và sự tác động của đời sống thời hiện đại, buôn Cô Thôn vẫn bền bỉ giữ gìn được những giá trị di sản văn hóa và tập tục có từ lâu đời của tộc người Ê Đê bản địa ở thành phố Buôn Ma Thuột.
Nằm ở cuối đường Trần Nhật Duật, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk chừng 2km về hướng Bắc là buôn Cô Thôn hay còn gọi là buôn Ako Dhong. Trong tiếng Ê Đê, Ako Dhong có nghĩa là đầu nguồn suối và trên thực tế buôn này cũng nằm ngay đầu nguồn suối Ea Nuôl.
Buôn Cô Thôn được xem là buôn làng giàu mạnh, đẹp nhất Tây Nguyên và có lẽ cũng là buôn duy nhất hiện còn giữ được dáng dấp, nét độc đáo của buôn làng truyền thống người Ê Đê.
Nằm ở cuối đường Trần Nhật Duật, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk chừng 2km về hướng Bắc là buôn Cô Thôn hay còn gọi là buôn Ako Dhong. Trong tiếng Ê Đê, Ako Dhong có nghĩa là đầu nguồn suối và trên thực tế buôn này cũng nằm ngay đầu nguồn suối Ea Nuôl.
Buôn Cô Thôn được xem là buôn làng giàu mạnh, đẹp nhất Tây Nguyên và có lẽ cũng là buôn duy nhất hiện còn giữ được dáng dấp, nét độc đáo của buôn làng truyền thống người Ê Đê.
Vẻ đẹp độc đáo ngôi nhà dài truyền thống của người Ê Đê ở buôn Cô Thôn. Ảnh: Thanh Hòa
Trải nghiệm 7km nối dài của động Thiên Đường
Động Thiên Đường (thuộc Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng) từ lâu là địa điểm du lịch quen thuộc với những du khách mỗi khi đến Quảng Bình. Thế nhưng, hầu hết du khách chỉ biết đến tour 1km đầu được xây cầu gỗ và ánh sáng dẫn đường, mà ít người biết rằng phía sau còn có 7km hang động chỉ dành cho du khách ưa thích sự kỳ bí khám phá.
Trước khi bắt chuyến khám phá, chúng tôi được nghe hướng dẫn viên giới thiệu thông tin cơ bản của hành trình và mỗi người được phát chiếc đèn pin nhỏ đội đầu cùng đôi dép rọ. Sau khi kết thúc đoạn 1km hang đã đưa vào khai thác du lịch, chúng tôi bắt đầu đi xuống và phải bật đèn trên đầu để có đủ ánh sáng nhìn đường đi để khám phá 7km tiếp theo trong tour 2 du lịch động Thiên Đường.
Khoảng 500m đầu tiên, qua ánh sáng le lói của chiếc đèn pin, chúng tôi thấy hơi nước ở dưới lòng động bốc lên khiến không gian trở lên huyền ảo. Ở dưới chân có thể thấy các khối măng đá có hình thù khác nhau. Không chỉ vậy, càng đi sâu vào trong động, chúng tôi bắt gặp những nhũ đá mà theo hướng dẫn viên gọi là nhũ ống, nhũ cành, nhũ rèm có màu đen, vàng, trắng...
Trước khi bắt chuyến khám phá, chúng tôi được nghe hướng dẫn viên giới thiệu thông tin cơ bản của hành trình và mỗi người được phát chiếc đèn pin nhỏ đội đầu cùng đôi dép rọ. Sau khi kết thúc đoạn 1km hang đã đưa vào khai thác du lịch, chúng tôi bắt đầu đi xuống và phải bật đèn trên đầu để có đủ ánh sáng nhìn đường đi để khám phá 7km tiếp theo trong tour 2 du lịch động Thiên Đường.
Khoảng 500m đầu tiên, qua ánh sáng le lói của chiếc đèn pin, chúng tôi thấy hơi nước ở dưới lòng động bốc lên khiến không gian trở lên huyền ảo. Ở dưới chân có thể thấy các khối măng đá có hình thù khác nhau. Không chỉ vậy, càng đi sâu vào trong động, chúng tôi bắt gặp những nhũ đá mà theo hướng dẫn viên gọi là nhũ ống, nhũ cành, nhũ rèm có màu đen, vàng, trắng...
Bánh dân gian của đồng bào Chăm
Nhiều món bánh dân gian truyền thống của người Chăm như: bánh bò nướng, bánh cay, bánh nambarang, bánh bông lan… thường có những nguyên liệu cơ bản là bột mỳ, bột gạo, nước dừa hoặc nước của cây thốt nốt cùng với ớt cay hòa quyện nên hầu hết mang hương vị thơm nồng, béo và cay vốn là đặc trưng khẩu vị yêu thích của họ.
Những món bánh truyền thống này thường được làm nhiều vào nhịp dịp cưới hỏi, nghi lễ tôn giáo, dịp lễ hội, tết truyền thống... Nguyên liệu và cách chế biến bánh của đồng bào Chăm ở An Giang đã mang lại một nét đặc trưng rất riêng so với các loại bánh cùng tên do những nơi khác làm ra.
Nguyên liệu cơ bản thường dùng làm các loại bánh kể trên là bột mỳ, bột gạo, hột vịt, nước cốt dừa, củ hành, ớt, muối… ngoài ra, một số loại bánh còn dùng các loại lá cây có nhiều ở địa phương dùng để trang trí và tạo thêm mùi thơm cho món bánh. Mỗi món bánh sẽ có một cách pha chế nguyên liệu và cách nấu riêng để mang lại hương vị khác biệt của món bánh đó. Như bánh bò, bánh nambarang được làm từ bột gạo, bánh bông lan làm từ bột mỳ và phải có thêm nước cốt dừa hoặc bột dừa để tạo độ xốp cho chiếc bánh, khi ăn sẽ mang lại cảm giác giòn thơm, không quá dai. Có thể thay thế nước cốt dừa bằng nước của trái thốt nốt sẽ làm món bánh thơm mùi thơm đặc trưng của trái thốt nốt – vốn là loài cây có rất nhiều ở vùng đất An Giang.
Những món bánh truyền thống này thường được làm nhiều vào nhịp dịp cưới hỏi, nghi lễ tôn giáo, dịp lễ hội, tết truyền thống... Nguyên liệu và cách chế biến bánh của đồng bào Chăm ở An Giang đã mang lại một nét đặc trưng rất riêng so với các loại bánh cùng tên do những nơi khác làm ra.
Nguyên liệu cơ bản thường dùng làm các loại bánh kể trên là bột mỳ, bột gạo, hột vịt, nước cốt dừa, củ hành, ớt, muối… ngoài ra, một số loại bánh còn dùng các loại lá cây có nhiều ở địa phương dùng để trang trí và tạo thêm mùi thơm cho món bánh. Mỗi món bánh sẽ có một cách pha chế nguyên liệu và cách nấu riêng để mang lại hương vị khác biệt của món bánh đó. Như bánh bò, bánh nambarang được làm từ bột gạo, bánh bông lan làm từ bột mỳ và phải có thêm nước cốt dừa hoặc bột dừa để tạo độ xốp cho chiếc bánh, khi ăn sẽ mang lại cảm giác giòn thơm, không quá dai. Có thể thay thế nước cốt dừa bằng nước của trái thốt nốt sẽ làm món bánh thơm mùi thơm đặc trưng của trái thốt nốt – vốn là loài cây có rất nhiều ở vùng đất An Giang.
Bột gạo và bột mỳ là những nguyên liệu chính để làm những món bánh dân gian truyền thống của đồng bào Chăm như bánh bò nướng, bánh cay, bánh namparang.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)


