Thế nên, không phải ngẫu nhiên mà người ta nói đến Cà Mau “xuồng ghe ngày đêm không ngớt”, “Cà Mau đường đi không khó mà chỉ khó có sông vắng đò”. Chợ được hình thành từ yếu tố văn minh sông nước nuôi dưỡng mạch sống và hun đúc trí tuệ con người bao đời trên vùng đất mới.
19 thg 12, 2018
Văn hóa chợ trong phát triển du lịch Cà Mau
Không biết từ khi nào người Cà Mau biết đến chợ, có lẽ là từ thời xửa thời xưa khi mà con người đến với vùng đất này khai hoang mở cõi. Theo sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức thì vùng đất Cà Mau vốn đã hình thành cách đây 300 năm, vào thời Gia Long, người dân đã biết tập trung vào những giồng đất cao ven các con sông Tam Giang, Ông Đốc, Bảy Háp để khai khẩn và nuôi trồng sản xuất. Đến thời Tự Đức vùng đất Cà Mau vẫn còn hoang hóa, một vùng đầm lầy tập trung nhiều cây mắm, cây đước, cây vẹt, cây tràm, đất và nước nhiễm nhiều phèn nên khó khăn cho việc canh tác, nuôi trồng. Mặc dù vậy vẫn xuất hiện những người di dân, họ đến tập trung, trao đổi mua bán hàng hóa và dần dần sinh ra chợ. Với vị trí địa lý đặc thù là địa hình sông nước nên hình thức chợ ban đầu là chợ nổi và phương tiện lưu thông chủ yếu là xuồng ghe.
Chợ nổi Long Xuyên mùa gió bấc
Trong cái se lạnh của tiết trời cuối năm, ngồi trên chiếc đò chèo, thưởng thức tô bún riêu, nhâm nhi một ly cà phê buổi sáng, thả hồn bồng bềnh theo con nước, mang lại cảm giác lâng lâng khó tả. Dạo chợ nổi Long Xuyên, điểm hấp dẫn không chỉ bởi các món ăn dân dã, các loại rau, củ, quả tươi ngon mà còn khám phá được nét sinh hoạt sông nước truyền thống của người miền Tây.
Độc đáo miền sông nước
Chẳng ai nhớ chợ nổi Long Xuyên hình thành từ khi nào, kể cả những người gắn bó gần cả đời với chợ nổi. Khi mà giao thông đường bộ chưa phát triển, người dân còn quen mua, bán bằng xuồng, ghe trên sông, chợ nổi Long Xuyên đã xuất hiện. Ngày nay, dù giao thông đường bộ phát triển, hệ thống chợ, siêu thị hình thành rất nhiều trên đất liền, chợ nổi vẫn tồn tại và giữ nguyên vẹn hình thức sinh hoạt như xưa, trở thành nét văn hóa độc đáo miền sông nước.
Độc đáo miền sông nước
Chẳng ai nhớ chợ nổi Long Xuyên hình thành từ khi nào, kể cả những người gắn bó gần cả đời với chợ nổi. Khi mà giao thông đường bộ chưa phát triển, người dân còn quen mua, bán bằng xuồng, ghe trên sông, chợ nổi Long Xuyên đã xuất hiện. Ngày nay, dù giao thông đường bộ phát triển, hệ thống chợ, siêu thị hình thành rất nhiều trên đất liền, chợ nổi vẫn tồn tại và giữ nguyên vẹn hình thức sinh hoạt như xưa, trở thành nét văn hóa độc đáo miền sông nước.
18 thg 12, 2018
Đánh thức tiềm năng du lịch Cần Đước
Cần Đước là vùng đất văn hóa, giàu truyền thống cách mạng, được công nhận Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, Huyện điểm điển hình về văn hóa của tỉnh Long An. Đây cũng là vùng đất giàu tiềm năng du lịch. Nếu được quan tâm đầu tư, Cần Đước hứa hẹn sẽ là điểm đến thú vị đối với du khách.
Du khách tìm hiểu về lịch sử di tích Nhà Trăm Cột qua lời giới thiệu của chủ nhà
Sức bật Măng Ri
Nói đến Măng Ri, hầu như mọi người dân Kon Tum đều biết, bởi nơi đây không chỉ nổi tiếng với cây dược liệu quý – sâm Ngọc Linh mà còn là mảnh đất có bề dày truyền thống cách mạng - là Khu căn cứ Tỉnh ủy Kon Tum trong kháng chiến chống Mỹ.
Xã Măng Ri (huyện Tu Mơ Rông) là vùng đất có truyền thống đấu tranh cách mạng nổi tiếng của tỉnh. Nơi đây từng là Khu căn cứ Tỉnh ủy Kon Tum trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đã được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Phát huy truyền thống cách mạng, ngày nay Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Măng Ri đang ra sức lao động sản xuất, tận dụng những lợi thế sẵn có của vùng đất này để từng bước phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Xã Măng Ri có 6 thôn, làng, với gần 100% dân số là đồng bào dân tộc Xơ Đăng. Theo những già làng ở xã Măng Ri cho biết, xã được lấy tên Măng Ri theo tiếng Xơ Đăng có ý nghĩa là từ ghép tên của cây đa và cây măng sâm lũ, một trong những loại cây có nhiều trên địa bàn xã và thường được bộ đội sử dụng làm thực phẩm trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
Xã Măng Ri (huyện Tu Mơ Rông) là vùng đất có truyền thống đấu tranh cách mạng nổi tiếng của tỉnh. Nơi đây từng là Khu căn cứ Tỉnh ủy Kon Tum trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đã được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Phát huy truyền thống cách mạng, ngày nay Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Măng Ri đang ra sức lao động sản xuất, tận dụng những lợi thế sẵn có của vùng đất này để từng bước phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Xã Măng Ri có 6 thôn, làng, với gần 100% dân số là đồng bào dân tộc Xơ Đăng. Theo những già làng ở xã Măng Ri cho biết, xã được lấy tên Măng Ri theo tiếng Xơ Đăng có ý nghĩa là từ ghép tên của cây đa và cây măng sâm lũ, một trong những loại cây có nhiều trên địa bàn xã và thường được bộ đội sử dụng làm thực phẩm trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
Chăm sóc sâm Ngọc Linh
Trên đỉnh Trà Sư
Trong dịp tình cờ, chúng tôi được người bạn dẫn đi chinh phục đỉnh núi Trà Sư. Ngọn núi cao chưa đầy 150m nằm bên cạnh thị trấn Nhà Bàng (Tịnh Biên) này có những nét đẹp riêng và tiếp đón khá đông khách hành hương đến cúng viếng.
Việc thăm đỉnh Trà Sư là mong muốn của chúng tôi từ lâu nhưng chuyến đi núi vừa qua thực sự nằm ngoài kế hoạch. Do đó, tôi leo núi với chiếc ba lô lỉnh kỉnh đồ đạc và đôi giày vốn không phù hợp cho những chuyến dã ngoại mướt mồ hôi như thế này.
Theo lời người bạn, đỉnh Trà Sư không quá cao nhưng đường lên đó chủ yếu là thang dốc men theo triền núi dựng đứng. Bởi thế, việc lên tới độ cao gần 150m thực sự là một thử thách “rất đã” với những ai quanh năm chỉ quen sống ở đồng bằng.
Việc thăm đỉnh Trà Sư là mong muốn của chúng tôi từ lâu nhưng chuyến đi núi vừa qua thực sự nằm ngoài kế hoạch. Do đó, tôi leo núi với chiếc ba lô lỉnh kỉnh đồ đạc và đôi giày vốn không phù hợp cho những chuyến dã ngoại mướt mồ hôi như thế này.
Theo lời người bạn, đỉnh Trà Sư không quá cao nhưng đường lên đó chủ yếu là thang dốc men theo triền núi dựng đứng. Bởi thế, việc lên tới độ cao gần 150m thực sự là một thử thách “rất đã” với những ai quanh năm chỉ quen sống ở đồng bằng.
Một góc thị trấn Nhà Bàng nhìn từ đỉnh Trà Sư
17 thg 12, 2018
Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam
Thiền phái Trúc Lâm là một thiền phái Việt do Phật hoàng Trần Nhân Tông khởi lập từ thế kỷ 13. Sau nhiều năm tháng, thiền phái này bị quên lãng. Từ năm 1968, Hòa thượng Thích Thanh Từ là người đã gầy dựng lại Thiền phái Trúc Lâm. Từ đó Ngài đã cho xây dựng nhiều thiền viện Trúc Lâm trên khắp cả nước (và cả ở nước ngoài), trong đó được biết đến nhiều nhất là Thiền viện Trúc Lâm Phượng Hoàng (tức Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, 1993), Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử (Quảng Ninh, 2002), Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên (Vĩnh Phúc, 2005)... Thế nhưng mãi đến năm 2012 vẫn chưa hề có ngôi thiền viện Trúc Lâm nào ở miền Tây Nam bộ (trong khi sinh quán của ngài Thích Thanh Từ là ở Vĩnh Long, thuộc miền Tây Nam bộ).
Để thỏa ước mong của Phật tử nơi đây về một nơi tu tập, ngôi Thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác được khởi công năm 2012 tại Tiền Giang, và khánh thành ngày 22/11/2015. Gần như đồng thời, Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam được khởi công tại Cần Thơ ngày 16/7/2013, khánh thành ngày 17/5/2014. Kế đến là Thiền viện Trúc Lâm Trà Vinh, khởi công năm 2014, khánh thành ngày 31/1/2016.
Di tích quốc gia nơi cực Nam Tổ quốc
Bia kỷ niệm Ban Ấn loát đặc biệt Nam Bộ là một công trình có ý nghĩa đặc biệt đối với ngành Tài chính nhằm tôn vinh, ghi nhận công lao, sự đóng góp to lớn của thế hệ đi trước, qua đó giáo dục truyền thống tốt đẹp của ngành Tài chính Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám thành công không bao lâu, ngày 23/9/1945 cả Nam Bộ lại đứng lên kháng chiến chống Pháp. Trước nhu cầu cấp thiết phải phát hành giấy bạc Việt Nam để chủ động điều hành kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm cuộc kháng chiến lâu dài, ngày 1/11/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 102/SL cho phép Nam Bộ phát hành tín phiếu riêng. Nhưng nhờ đã “Việt Nam hoá” trên 100 triệu đồng Ðông Dương, nên việc thi hành sắc lệnh trên được tạm hoãn. Sau đó, để bớt khó khăn cho Nam Bộ, bằng Sắc lệnh số 147/SL ngày 2/3/1948, Chính phủ Trung ương lại cho phép phát hành tại Nam Bộ giấy bạc Việt Nam, gọi là giấy bạc Trung ương.
Ðể in giấy bạc, Ban Ấn loát đặc biệt Nam Bộ được thành lập tại chiến khu bưng biền Ðồng Tháp Mười (huyện Mộc Hoá, tỉnh Ðồng Tháp) do ông Ngô Tấn Nhơn, đặc phái viên của Chính phủ làm Trưởng ban. Ðể che mắt địch, Ban Ấn loát đặc biệt Nam Bộ được mang biệt danh “Ban Trồng tỉa số 10”.
Cách mạng Tháng Tám thành công không bao lâu, ngày 23/9/1945 cả Nam Bộ lại đứng lên kháng chiến chống Pháp. Trước nhu cầu cấp thiết phải phát hành giấy bạc Việt Nam để chủ động điều hành kinh tế, đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm cuộc kháng chiến lâu dài, ngày 1/11/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 102/SL cho phép Nam Bộ phát hành tín phiếu riêng. Nhưng nhờ đã “Việt Nam hoá” trên 100 triệu đồng Ðông Dương, nên việc thi hành sắc lệnh trên được tạm hoãn. Sau đó, để bớt khó khăn cho Nam Bộ, bằng Sắc lệnh số 147/SL ngày 2/3/1948, Chính phủ Trung ương lại cho phép phát hành tại Nam Bộ giấy bạc Việt Nam, gọi là giấy bạc Trung ương.
Ðể in giấy bạc, Ban Ấn loát đặc biệt Nam Bộ được thành lập tại chiến khu bưng biền Ðồng Tháp Mười (huyện Mộc Hoá, tỉnh Ðồng Tháp) do ông Ngô Tấn Nhơn, đặc phái viên của Chính phủ làm Trưởng ban. Ðể che mắt địch, Ban Ấn loát đặc biệt Nam Bộ được mang biệt danh “Ban Trồng tỉa số 10”.
Bia kỷ niệm Ban Ấn loát đặc biệt Nam Bộ, nơi giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Ảnh: THANH QUANG
Mỹ Khê - bãi biển quyến rũ du khách
Có lẽ hiếm du khách nào đặt chân đến Đà Nẵng mà chưa chiêm ngưỡng vẻ đẹp của biển Mỹ Khê. Tạp chí kinh tế danh tiếng Forbes của Mỹ đã bình chọn Mỹ Khê là 1 trong 6 bãi biển quyến rũ nhất hành tinh.
Bờ biển Mỹ Khê trải dài hơn 10km từ vòng cung phía bắc cho đến phía nam. Đi từ trung tâm thành phố đến biển chỉ mất khoảng 10-15 phút. Vào mùa hè, giờ nào biển Mỹ Khê cũng đông khách. Khách du lịch đi tham quan tắm biển có, mà dân địa phương đi tập thể dục thể thao, “trốn” nóng cũng có.
Bãi biển Mỹ Khê thu hút khách du lịch và người dân thành phố. Ảnh: Tripadvisor
Bờ biển Mỹ Khê trải dài hơn 10km từ vòng cung phía bắc cho đến phía nam. Đi từ trung tâm thành phố đến biển chỉ mất khoảng 10-15 phút. Vào mùa hè, giờ nào biển Mỹ Khê cũng đông khách. Khách du lịch đi tham quan tắm biển có, mà dân địa phương đi tập thể dục thể thao, “trốn” nóng cũng có.
"Viên ngọc báu" Bãi Bụt
Nằm ở phía nam bán đảo Sơn Trà, Bãi Bụt được xem là một “viên ngọc báu” mà thiên nhiên đã ban tặng cho Đà Nẵng. Nơi đây, màu xanh của biển cả hòa với sắc lục của rừng cây khiến ai đứng trước vẻ đẹp ấy cũng thấy lòng yên ả.
Bãi Bụt nằm cách trung tâm thành phố khoảng 13-15km. Nếu đi xe từ chân núi Sơn Trà lên chùa Linh Ứng, đến gần chùa, bạn hãy thử dừng xe để nhìn sang bên phía biển. Từ trên cao nhìn xuống, đầu tiên sẽ thấy màu xanh lục của một cánh rừng nguyên sinh, sau đó là sắc vàng pha trắng óng ả của bãi cát, rồi đến màu xanh mênh mang trong vắt của biển khơi. Đó chính là Bãi Bụt.
Cảnh quan Bãi Bụt nhìn từ trên cao. Ảnh: Internet
Bãi Bụt nằm cách trung tâm thành phố khoảng 13-15km. Nếu đi xe từ chân núi Sơn Trà lên chùa Linh Ứng, đến gần chùa, bạn hãy thử dừng xe để nhìn sang bên phía biển. Từ trên cao nhìn xuống, đầu tiên sẽ thấy màu xanh lục của một cánh rừng nguyên sinh, sau đó là sắc vàng pha trắng óng ả của bãi cát, rồi đến màu xanh mênh mang trong vắt của biển khơi. Đó chính là Bãi Bụt.
Làng nghề đúc đồng Chú Tượng: Xưa và nay
“Ngày trước, ở làng Chú Tượng, lúc mọi người còn đang say giấc ngủ, thì những gia đình làm nghề đúc đồng phải thức giấc để đốt lò chuẩn bị cho một ngày làm nghề. Cả làng sống bằng nghề đúc đồng nên lúc nào cũng nhộn nhịp...”, cụ ông Đỗ Thị (84 tuổi), ở thôn Chú Tượng, xã Đức Hiệp (Mộ Đức) kể.
Vang danh một thuở
Cụ Đỗ Thị có thâm niên 60 năm gắn bó với nghề đúc đồng, bắt đầu câu chuyện với chúng tôi từ tên gọi của làng. Không phải ngẫu nhiên mà nơi đây có tên gọi là Chú Tượng. “Chú” nghĩa là “thợ”, “tượng” là “đúc”, tức là làng thợ đúc. Ngày trước, ở làng Chú Tượng hầu như nhà nào cũng làm nghề đúc đồng, với hàng trăm hộ gia đình làm nghề.
Không ai nhớ chính xác làng nghề đúc đồng Chú Tượng có từ khi nào, chỉ biết rằng cứ cha truyền con nối, đến nay đã rất lâu đời. Thuở trước, đây là làng nghề đúc đồng nổi tiếng không chỉ ở Quảng Ngãi. Không đơn giản để trở thành một người thợ đúc đồng lành nghề, mà phải “thẩm thấu” cái hồn của nghề từ khi còn là tấm bé.
Vang danh một thuở
Cụ Đỗ Thị có thâm niên 60 năm gắn bó với nghề đúc đồng, bắt đầu câu chuyện với chúng tôi từ tên gọi của làng. Không phải ngẫu nhiên mà nơi đây có tên gọi là Chú Tượng. “Chú” nghĩa là “thợ”, “tượng” là “đúc”, tức là làng thợ đúc. Ngày trước, ở làng Chú Tượng hầu như nhà nào cũng làm nghề đúc đồng, với hàng trăm hộ gia đình làm nghề.
Không ai nhớ chính xác làng nghề đúc đồng Chú Tượng có từ khi nào, chỉ biết rằng cứ cha truyền con nối, đến nay đã rất lâu đời. Thuở trước, đây là làng nghề đúc đồng nổi tiếng không chỉ ở Quảng Ngãi. Không đơn giản để trở thành một người thợ đúc đồng lành nghề, mà phải “thẩm thấu” cái hồn của nghề từ khi còn là tấm bé.
Cụ Đỗ Thị giới thiệu sản phẩm bằng đồng do chính tay cụ làm ra. Ảnh: P.Lý
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)








