9 thg 2, 2013

Huế - Diễm lệ những công trình

Cố đô Huế không chỉ nổi tiếng bởi vẻ đẹp của những tòa cung điện nguy nga tráng lệ mà còn ở nét diễm lệ của những công trình lăng tẩm, đình đền, chùa chiền… cổ kính nằm hòa mình duyên dáng trong một vùng cảnh quan thiên nhiên thơ mộng.

Nói đến các công trình kiến trúc cổ của Huế không thể không nhắc đến hệ thống lăng tẩm, nơi yên nghỉ của các vị vua triều Nguyễn. Mỗi công trình là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mĩ bởi chúng không chỉ thể hiện khả năng tài hoa của người thợ xứ Huế mà còn phản ánh cả cá tính mỗi vị vua lúc sinh thời.

Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu từ khi hoàng đế Gia Long lên ngôi vào năm 1802 và kết thúc vào năm 1945 khi hoàng đế Bảo Đại tuyên bố thoái vị, tổng cộng là 143 năm với 13 đời vua. Hiện nay, ở Huế vẫn còn lại 7 khu lăng tẩm của 7 vị vua triều Nguyễn, trong đó đáng chú ý như lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức...

Nằm cách trung tâm thành phố Huế chừng 16km về phía Tây Nam, giữa một vùng quần sơn gồm 42 ngọn núi lớn nhỏ thuộc xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế có lăng Gia Long (còn gọi là Thiên Thọ Lăng). Đây là nơi yên nghỉ của vua Gia Long (1762 - 1820), vị vua đầu tiên trong số 13 đời vua nhà Nguyễn.

Hội đền Hai Bà Trưng

Xã Mê Linh, huyện Mê Linh, Hà Nội là quê hương của Hai Bà Trưng (hai nữ anh hùng dân tộc Trưng Trắc và Trưng Nhị), cũng là nơi Hai Bà xưng vương, lập đô sau khi đánh tan giặc ngoại xâm những năm đầu công nguyên (40 - 43). Để tưởng nhớ công ơn Hai Bà, hàng năm, tại đây, vào ngày 6 tháng Giêng âm lịch, người dân địa phương lại tổ chức lễ hội.

Lễ hội mở đầu bằng đám rước kiệu vua Bà, voi chiến cùng lễ vật từ đình Hạ Lôi về Khu di tích đền thờ Hai Bà Trưng. Đám rước diễn ra tưng bừng, náo nhiệt, đi trong cờ quạt rực rỡ, trong tiếng trống, thanh la và phường bát âm réo rắt trúc tơ. Những bô lão đầy uy tín, đức độ của làng được chọn ra đánh trống, chiêng ngày hội. Hai cỗ kiệu rước Hai Bà do những thiếu nữ thanh tân, trẻ đẹp, khỏe mạnh, tháo vát của làng khiêng. Hai bên đường, người dân địa phương bày bàn thờ lễ vật trước cửa nhà, làm lễ vọng đón đoàn rước đi qua. Ai nấy đều thành kính, tưởng nhớ tới công ơn của Hai Bà đã phất cờ khởi nghĩa, giành độc lập cho dân tộc. Phần lễ kết thúc, phần hội diễn ra với những điệu múa dân gian, đấu vật, những trò chơi truyền thống của dân tộc như: đánh đu, đập niêu đất…

Đoàn rước hội đền Hai Bà Trưng.

Du ngoạn Ngũ Hành Sơn

Cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng bảy cây số, Ngũ Hành Sơn là chốn thiền môn hoang sơ, tĩnh lặng, thu hút du khách đến khám phá, chiêm nghiệm, thoát ra khỏi cuộc sống ồn ào của phố thị.

Ngũ Hành Sơn là năm ngọn núi vươn ra như năm ngón tay có tên theo ngũ hành: Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn và Thổ Sơn. Những ngọn núi ấy thành tên từ thế kỷ 19 do vua Minh Mạng đặt. Có nhiều truyền thuyết về sự hình thành Ngũ Hành Sơn, trong đó có chuyện kể rằng: Ngày xưa, nơi đây là vùng biển hoang vu, chỉ có một ông già sống đơn độc trong túp lều tranh. Một hôm, trời đang sáng bỗng nhiên tối sầm, giông bão nổi lên, một con giao long rất lớn xuất hiện vùng vẫy trên bãi cát và một quả trứng khổng lồ. Lát sau, một con rùa vàng xuất hiện, tự xưng là thần Kim Quy, đào cát vùi quả trứng xuống và giao cho ông già nhiệm vụ bảo vệ giọt máu của Long Quân.

Quả trứng càng ngày càng lớn, nhô lên cao, chiếm cả vùng đất rộng lớn. Vỏ trứng ánh lên đủ màu sắc xanh, đỏ, trắng, vàng, tím, lấp lánh như hòn gạch khổng lồ. Hôm khác, ông lão vừa chợp mắt thì nghe có tiếng lửa cháy, trong lòng trứng xuất hiện một cái hang rộng rãi, mát mẻ. Ông cầu cứu móng rùa- vật mà thần Kim Quy đã giao lại cho ông lúc ra đi rồi đặt lưng xuống ngủ thiếp luôn. Ông không biết đang xảy ra phép lạ: một cô gái xinh xắn bước ra từ trong trứng và nơi ông nằm là một trong năm hòn cẩm thạch vừa được hình thành từ năm mảnh vỏ trứng, sau thành năm 5 ngọn núi Ngũ Hành Sơn như bây giờ. 

Đường lên Ngũ Hành Sơn đi giữa những vách đá đầy màu sắc.

Huế di sản văn hóa thế giới

Trong quần thể những công trình kiến trúc của Huế được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hóa thế giới, cụm kinh thành Huế được đánh giá là một quần thể kiến trúc đồ sộ và có giá trị hơn cả.

Nghiêng mình bên dòng Hương Giang xanh hiền hòa của mền Trung ruột thịt, thành phố mà chúng ta đang nói đến mang một cái tên đơn âm nôm na như bao làng mạc cổ Việt Nam: Huế. Trải bao thăng trầm lịch sử, tên những làng mạc cổ dần dần chìm khuất, nhưng Huế vẫn giữ nguyên cái tên “cúng cơm” ban đầu của mình để đi vào thế giới hiện đại.

Thành phố không lớn, nằm trên một dải đất hẹp, nắng mưa khắc nghiệt, ít được thiên nhiên ưu đãi nhất miền Trung, thế nhưng nơi đây từ thời Chúa Nguyễn đã được chọn làm thủ phủ xứ “Đàng Trong”. Từ năm 1635 – 1687, Chúa Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần dựng phủ ở Kim Long; từ 1688 đến 1774 Chúa Nguyễn Phúc Thái và Nguyễn Phúc Khoát dời phủ về Phú Xuân. Đến thời Tây Sơn, Huế vẫn được vua Quang Trung chọn làm kinh đô.

Toàn cảnh quần thể kiến trúc kinh thành Huế nhìn từ trên cao. Ảnh: Tư liệu của Mạnh Thường.

8 thg 2, 2013

Độc đáo Nhà Trăm Cột

Ở tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông, thuộc xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đước, tỉnh Long An, Nhà Trăm Cột là công trình kiến trúc điêu khắc cổ mang phong cách “nhà rường” Huế điển hình nằm lọt giữa vùng quê Nam Bộ đã có từ hơn 100 năm nay. Công trình đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch - PV) xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia năm 1997... 

Ngôi nhà này được khởi công vào năm 1901, đến năm 1903 thì hoàn thành và năm 1904 thì xong phần chạm khắc trang trí do nhóm 15 thợ từ làng Mỹ Xuyên - làng chạm khắc mộc nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế thực hiện bằng chất liệu chủ yếu là các loại gỗ quý như cẩm lai, mun... Với diện tích 882m2, Nhà Trăm Cột tọa lạc trên một khu vườn rộng 4.044m2, chính diện quay về hướng Tây Bắc. Nhà làm bằng các loại gỗ cẩm lai, gõ đỏ, gõ mật; mái lợp ngói âm dương, nền nhà bằng đá tảng cao 0,9m, mặt nền lát gạch Tàu lục giác. Nhìn trên bình đồ, Nhà Trăm Cột có kiểu chữ “Quốc”, 3 gian, 2 chái. 

Nhà Trăm Cột mang phong cách “nhà rường” Huế.

Hội làng Thổ Hà

Làng Thổ Hà thuộc xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, lâu nay được coi là mảnh đất “Địa linh nhân kiệt”, nơi có không gian văn hóa làng đặc trưng với các công trình đình, đền, chùa, tiêu biểu cho vùng Kinh Bắc. Cùng với nó còn có sự góp mặt của hội làng Thổ Hà, một trong những lễ hội đặc sắc ở Việt Nam.

Hội làng Thổ Hà được tổ chức trong ba ngày, từ 20 đến 22 tháng Giêng âm lịch, nhưng chính hội là ngày 21. Hội ba năm mới tổ chức rước một lần nên mỗi dịp có lễ hội là dân làng lại náo nức đón chờ. Từ Hà Nội, để có thể sang dự hội, chúng tôi phải qua bến đò Thổ Hà phía bờ hữu ngạn sông Cầu. Bến đò vào ngày hội làng tấp nập khác thường. Hướng tầm mắt về phía làng Thổ Hà thấy cổng chào bằng gỗ được dựng lên rất trang trọng. Anh lái đò giải thích rằng, tục lệ dựng cổng chào này đã có cả ngàn năm nay, từ thời nhà Lý (1010 - 1225). Thời ấy, cứ ngày mùng 5 Tết Nguyên đán, nhà vua lại cùng cận thần từ Thăng Long (nay là Hà Nội) đi thuyền xuôi sông Hồng xuống Hải Phòng rồi ngược sông Cầu lên đình Thổ Hà uống rượu làng Vân.

Lễ rước Thành hoàng làng của hội làng Thổ Hà.