24 thg 1, 2013

Mẫu Sơn hè gọi

Cùng với Sa Pa, Tam Đảo, Bà Nà, Mẫu Sơn (xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn) là một điểm đến nghỉ dưỡng, tham quan thú vị cho du khách mỗi khi hè về. Mẫu Sơn những ngày này đang trở mình với màu xanh bạt ngàn của những cánh rừng hòa quyện vào mây trời.

Dừng chân nghỉ ngơi một lát tại thành phố Lạng Sơn, sau đó bắt đầu lên đường rẽ vào quốc lộ 4B, đi khoảng 30km sẽ tới chân núi Mẫu Sơn. Thời tiết nóng bức gần 40 độ C vào ban ngày ở dưới đồng bằng, nhưng khi đặt chân tới những cánh rừng xanh tươi ở Mẫu Sơn ai cũng cảm thấy trong người như dịu mát hẳn.

Vào mùa hè, các đoàn xe từ khắp đồng bằng Bắc bộ lại rồng rắn kéo nhau lên Mẫu Sơn nghỉ mát, thưởng ngoạn. Đoạn đường lên núi dài 15km được xem là gian nan và khó khăn nhất với những khúc cua lượn, gấp khúc liên tục. Với những tay lái cừ khôi nhất cũng chỉ dám đi với tốc độ 15-20 km/giờ.


Từ cao nhìn xuống, con đường lên núi như những sợi chỉ trắng uốn lượn


Lên Cao Bằng ăn củ mài


Có dịp khám phá Cao Bằng tôi mới biết một số dân tộc vùng cao nơi đây coi củ mài như một thứ lương thực chính. Thậm chí, đối với họ củ mài mang một ân nghĩa vô cùng lớn lao.


Củ mài xưa vốn là nguồn lương thực chính của người nghèo - Ảnh: P.T.T

Củ mài rất dễ chế biến thành những món ăn thông thường, có thể đồ chín ăn thay cơm, nấu canh hay nấu chè… Chè củ mài còn được xem là món ăn đặc sản của người dân vùng núi, thường người dân Cao Bằng chỉ nấu chè vào những ngày lễ, dịp sum họp.
Về mặt đông y học, rễ củ mài có công dụng bổ, hạ nhiệt, chữa được các thứ bệnh hoa mắt, chóng mặt, hư lao, mồ hôi trộm… Củ mài được dùng trong đông y như một vị thuốc, là một trong 6 vị được các lương y kết thành gọi là lục vị.


Khẩu sli - đặc sản Cao Bằng

Đến Cao Bằng, bạn sẽ được thưởng thức thứ bánh đặc sản của vùng đất này. Đó là khẩu sli.

Cái tên bánh hẳn gợi nhiều tò mò cho bạn. Khẩu sli tiếng địa phương có nghĩa là bánh gạo nếp nổ, cũng có thể hiểu là bánh bỏng. Trước đây người Cao Bằng chỉ làm khẩu sli trong những dịp lễ tết, hội hè. Bây giờ, khẩu sli đã trở thành thứ bánh bày bán hằng ngày như nhiều thứ quà khác.

Những phong bánh khẩu sli được đóng gói thành phẩm


Bánh gai Cao Bằng

Bánh gai là một thứ quà quê quen thuộc với nhiều người. Bánh gai Hải Dương ngon có tiếng, bánh ít lá gai Nam bộ cũng thật hấp dẫn… nhưng bánh gai của người Tày, Nùng ở Cao Bằng thì phải nói khá là đặc biệt.


Bánh gai

Bánh gai Cao Bằng gắn liền với một truyền thuyết. Người dân nơi đây vẫn kể rằng vào thời vua Lý Thái Tông (đầu thế kỷ 10), giặc Tống sang xâm lược nước ta, thủ lĩnh của người Cao Bằng là Nùng Trí Cao đã chỉ huy quân dân vùng biên ải đánh giặc. Đồng bào làm bánh gai cho các chiến binh đem theo làm lương khô ra trận. Bánh được xâu thành từng cặp để đeo bên người cho tiện cho nên người Tày, Nùng gọi là pẻng tải (bánh đeo).





Thăm Bản Giốc, phiêu du Tổng Cọt

Đã lên tới thủ phủ Cao Bằng mà không tới thác Bản Giốc là điều đáng tiếc, còn nếu đã tới đệ nhất thác mà không du ngoạn theo con đường Tổng Cọt men biên giới thì càng đáng tiếc hơn. Dù tới được những địa danh đó vốn không mấy dễ dàng. 


Từ phía Việt Nam chụp thì dòng thác trông đẹp hơn, bởi những thửa ruộng dưới chân thác là tiền cảnh cực kỳ ấn tượng khi ngắm nhìn và chụp ảnh dòng nước trắng xoá tuôn trào từ trên núi xuống. 

Chỉ rời khỏi địa phận thành phố Cao Bằng vài cây số, cung đường lên Trùng Khánh đã hứa hẹn vô số gian truân khi ngoằn ngoèo men qua sườn núi, băng qua những vực tuy không sâu lắm nhưng đủ làm mướt mồ hôi các tay lái miền xuôi.

Non Nước Cao Bằng



Suối Pắc Bó.

"Em về nuôi cái cùng con / Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng…". Thủa bé, khi nghe mẹ ru em như vậy, tôi nghĩ Cao Bằng phải là nơi sơn cùng thủy tận, mịt mù xa lắc và thầm nhủ “lớn lên nhất định mình phải tới đó”. Mơ ước lớn dần theo năm tháng. Tôi đã đến Cao Bằng, không phải một mà nhiều lần. Vùng đất đậm đặc văn hóa với nhiều thắng cảnh tuyệt đẹp. 


Đến Cao Bằng chỉ có thể đi đường bộ, nhưng có nhiều tuyến đường để lên Cao Bằng. Một là theo quốc lộ 3 lên Thái Nguyên, Bắc Kạn; hoặc theo đường 4A từ Lạng Sơn qua; hoặc theo đường 34 từ Hà Giang xuống.



Ðền Hạ xứ Tuyên



Hội đền Hạ xứ Tuyên

Ðền Hạ cổ kính có tiếng từ lâu đời, nằm trên bến Tam Cờ ở bờ phải sông Lô thuộc thị xã Tuyên Quang. Đền thu hút dân cả vùng, khách thập phương trẩy hội vào tháng 2, tháng 7 âm lịch, với những cuộc rước Mẫu uy nghi mà náo nhiệt. Nay, hội đền là một điểm nhấn nổi trội du lịch tâm linh trên hành trình du ngoạn Tuyên Quang.


Ðền Hạ, tên chữ còn khắc trên tháp điện là "Hiệp Thuận linh từ" (đền Hiệp Thuận), là một trong số hiếm hoi công trình kiến trúc tạo dựng từ thời Lê.

Hồ Núi Cốc - một bức tranh thiên nhiên kì thú

Hồ Núi Cốc thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 15km về hướng tây nam. Nơi đây nổi tiếng bởi nét đẹp thiên tạo tự bao năm nay và bởi cả sắc màu huyền thoại của truyền thuyết nàng Công - chàng Cốc. 

Hồ Núi Cốc có 89 hòn đảo lớn nhỏ. 

Hồ Núi Cốc nằm giữa một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú, sơn thuỷ hữu tình. Mặt hồ rộng mênh mông, có 89 hòn đảo lớn nhỏ. Không khí ở đây hết sức trong lành và tinh khiết. Những dãy núi dài lấp ló trong mây, tựa như một cô gái đang nằm xoã tóc, dưới chân núi là mặt hồ êm ru sóng gợn. 

Lịch sử kiến tạo hồ Ba Bể

Hồ Ba Bể là hồ nước ngọt nằm giữa hai huyện Ba Bể, Chợ Đồn thuộc tỉnh Bắc Kạn. Hồ dài 8km, rộng 3km, nằm trên độ cao 145m so với mặt nước biển và được hình thành từ cách đây hơn 200 triệu năm. Bao quanh hồ là những dãy núi đá vôi cổ có niên đại hơn 450 triệu năm. Nơi đây được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam. 

Vẻ đẹp tự nhiên của hồ Ba Bể

Theo tiếng địa phương, hồ Ba Bể là "Slam Pé" (ba hồ), là tên gọi chung của 3 hồ thông nhau gồm Pé Lầm, Pé Lù và Pé Lèng. Hồ Ba Bể được hình thành cách đây hơn 200 triệu năm, do cuộc kiến tạo lục địa Đông Nam Á cuối kỷ Camri đã đưa một khối nước khổng lồ với bề mặt xấp xỉ 5 triệu m2 và chiều dày hơn 30m lên lưng chừng vùng núi đá vôi, tạo ra hồ Ba Bể. 

23 thg 1, 2013

Ngôi chùa nơi vua Minh Mạng chào đời

Trong những ngày đầu thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, nếu như chùa Sắc tứ Kim Chương dỡ được bộ sườn gỗ cùng nhiều hiện vật di tản về miền Tây thì Sắc tứ Khải Tường tự không có may mắn đó. Song đây là ngôi chùa của hoàng gia, dẫu “nước mất chùa tan” cũng phải giữ lại, dù chỉ là một cái tên.

Khoảng năm Mậu Thân (1788), chúa Nguyễn Phúc Ánh trở lại Gia Định có mượn nhà Tống Quốc công phu nhân (tức Tống Phúc Khuông phu nhân) để tạm trú. Theo lịch sử thì vào ngày 22 tháng 4 năm Tân Hợi (1791), Hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm (tức vua Minh Mạng) đã chào đời tại đây. Do đó, sau khi lên ngôi, nhà vua trăn trở: “Cố cung - chỗ sinh ra Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ở tại xã Dương Xuân (Huế), nhưng vì do binh biến nên không còn di tích. Sau khi đất nước thanh bình, trẫm tìm hiểu không ra. Mỗi khi nghĩ đến thương cảm khôn nguôi”, rồi ra lệnh cho Bộ Lễ: “... Nhân đó nghĩ đến chỗ ta ở chỗ nhà cũ của Tổng quốc công phu nhân tại ngoại thành Gia Định, vậy sai quan địa phương tìm hỏi xem”. 


Chân dung hòa thượng Chơn Thành - Ảnh: H.P