14 thg 2, 2013

Nơi thượng nguồn sông Mã

Ít ai biết thượng nguồn con sông Mã hùng vĩ lại bắt nguồn từ con suối nhỏ Púng Hon đầy truyền thuyết và gắn liền với văn hóa đặc sắc của người Thái ở nơi phên dậu Mường Lèo, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. 

“Đến huyện Sông Mã rồi mà không lên thượng nguồn sông ở Sốp Cộp thì phí chuyến phiêu du vùng nam của Tây Bắc”, người dân bản địa thấy chúng tôi giống dân phượt nên bảo thế. Từ trung tâm thị trấn Sốp Cộp, chúng tôi vật lộn với hơn 70 km đường rừng, đi ngược theo một dòng suối nhỏ, băng qua cả chục con dốc dựng đứng thì vùng đất Mường Lèo huyền bí với những ngôi nhà sàn gỗ cao to lừng lững đã hiện ra trước mắt.

Biết chúng tôi lặn lội đường xa đến đây để tìm hiểu về dòng suối nước Púng Hon và sự huyền bí văn hóa nguyên sơ của bà con dân bản, ông Bí thư xã Mường Lèo Lèo Văn Thuận say sưa kể về huyền thoại của dòng Púng Hon. Truyền thuyết kể rằng, Người Thái đen ở mường Púng Bánh đi săn thấy một con tê giác có 3 sừng, phường săn đuổi mãi, qua những ngọn núi quanh năm mây phủ, qua những tán rừng nguyền sinh thì thấy một vùng đất bằng phẳng. Ở giữa vùng đất đó ở có một con suối nước trong xanh mà chiều chiều hươu, nai kéo từng đàn xuống uống nước. Biết là vùng đất tốt, tộc người ăn theo nước mới di dân đến khai khẩn dựng mường. Thời ấy, con người và muông thú cùng chung sống hòa thuận dưới cánh rừng đại ngàn năm này qua năm khác. 


Con Suối Púng Hon êm đềm chảy qua thung lũng Mường Lèo tưới tiêu cho những cánh đồng lúa đang thì con gái.

Làng cổ Thủ Lễ

Làng Thủ Lễ thuộc xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền, hình thành vào khoảng giữa thời Lê (1428-1788). Làng nằm kề bên phá Tam Giang. Trải qua hơn nửa thế kỉ, làng cổ Thủ Lễ nay vẫn còn lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa đặc trưng của một làng quê xứ Huế.

Theo tiếng Hán, “Thủ Lễ” có nghĩa là “giữ lễ”. Điều đó cho thấy dân làng Thủ Lễ rất coi trọng việc giữ gìn lễ nghi, nền nếp và phong tục. Thủ Lễ là một làng thuần nông, đất rộng không tới 4km2, ruộng đất bình quân đầu người không quá một sào nhưng lại là vùng đất văn vật với nhiều công trình văn hóa đặc sắc như: đình, chùa, miếu thờ Ngũ Hành gắn với truyền thuyết về Huyền Trân Công chúa thời Trần (1225 - 1400) theo chồng mở cõi Đàng Trong, Văn Thánh Miếu thờ Khổng Tử, Võ Thánh Miếu thờ Quan Công...

Một trong số những câu đối chữ Hán ca ngợi truyền thống và vị thế của làng. (Ảnh: Công Đạt)

13 thg 2, 2013

Chùa Nhất Trụ

Nhất Trụ (còn gọi là Chùa Một Cột) là ngôi chùa cổ có từ thế kỉ X, nằm trong quần thể Khu di tích Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Chùa còn lưu giữ nhiều cổ vật gắn với lịch sử hình thành kinh đô Hoa Lư. 

Chùa Nhất Trụ được tạo lập năm 995, vua Lê Đại Hành đã cho dựng cột kinh (trụ đá) để khắc kinh dâng nhà Phật và xây dựng theo kiểu chữ Đinh, hướng chính Tây, gồm có cột kinh, chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp… Chùa có tên Nhất Trụ vì trước chùa có cột đá cao hơn 3m, tiết diện hình bát giác. Trên thân cột ngoài 3 phần chữ khắc gồm có Lạc khoản, Kệ, Kinh còn có các chữ “Đệ tử Thăng Bình Hoàng đế tả đạo” ("Hoàng đế Thăng Bình" tức vua Lê Hoàn).

Chùa Nhất Trụ nằm ở vị trí trung tâm, là di tích quan trọng nhất, là nơi tu hành và họp bàn việc nước của các nhà sư thế kỉ X như Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh. Trải qua các thời kì lịch sử của dân tộc, trước thử thách của gió bão, bom đạn chiến tranh, trụ đá vẫn còn đứng mãi với thời gian.


Cổng tam quan chùa Nhất Trụ.

Khám phá “Phủ đầu rồng”

Ngay giữa trung tâm thành phố Hồ Chí Minh có một công trình kiến trúc rất đặc biệt, đó chính là Hội trường Thống Nhất, hay còn gọi là Dinh Độc Lập. Đây chính là nơi chứng kiến sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, giải phóng hoàn toàn miền Nam vào ngày 30/4/1975. 

Thời Pháp thuộc, sau khi chiếm xong lục tỉnh Nam Kỳ (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên), tháng 2/1868, Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière đã cho xây dựng Dinh Thống đốc mới tại Sài Gòn thay cho dinh cũ được dựng bằng gỗ vào năm 1863. Công trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12ha với một dinh thự lớn có mặt tiền rộng 80m. Đến năm 1873, dinh được hoàn thành và đặt tên là Dinh Norodom, cùng tên với đại lộ trước dinh, lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom (1834-1904). Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, Dinh Norodom trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật, rồi sau 1945 lại trở thành trụ sở làm việc của Pháp ở Việt Nam.

Năm 1955, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đổi tên Dinh Norodom thành Dinh Độc Lập. Thời đó, giới chức và quân đội Sài Gòn cũng thường hay gọi bằng một cái tên ví von là “Phủ đầu rồng”. 



Năm 1955, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đổi tên dinh Norodom thành Dinh Độc Lập.

Buôn Đôn vào hội

Từ ngày 24 đến 26/3/2012, tại xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đaklak, cách Buôn Ma Thuột 40 km về phía Bắc đã diễn ra Lễ hội văn hóa truyền thống các dân tộc huyện Buôn Đôn năm 2012.

Đây là lễ hội truyền thống được tổ chức 2 năm một lần. Mặc dù chỉ diễn ra trong vòng chưa đầy 3 ngày, nhưng nội dung hết sức phong phú, độc đáo, đậm đà bản sắc Tây Nguyên. Trong đó có những chương trình đặc sắc như: Lễ cúng bến nước, Lễ cúng sức khỏe cho voi, Lễ đâm trâu, Lễ đua voi, Voi đá bóng… Bên cạnh đó còn có nhiều hoạt động khác như văn nghệ, trò chơi dân gian, ẩm thực, biểu diễn trang phục truyền thống.

Tối 24/3/2012, Lễ khai mạc Lễ hội văn hóa truyền thống các dân tộc huyện Buôn Đôn năm 2012 đã diễn ra tại xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đaklak.

Hội thi thổi cơm và làm cỗ chay làng Ngọc Tiên

Làng Ngọc Tiên thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định là một vùng quê trù phú, cảnh quan cổ kính, lễ nghi phong tục phong phú và đa dạng, nên dân chúng khắp nơi thường tìm về chiêm ngưỡng, lễ bái, nhất là vào các ngày lễ trọng. Đặc biệt, làng có hội thi thổi cơm và làm cổ chay rất độc đáo.

Để tưởng nhớ công ơn của Thành hoàng làng đã có công xây dựng làng xã, Ngài không những giỏi về mặt binh pháp mà còn giỏi cả về mặt chỉ đạo hậu cần. Hàng năm, cứ đến ngày 15 tháng Giêng, dân làng Ngọc Tiên lại mở hội để con cháu trong làng và dân quanh vùng về dự hội.

Hội làng được mở từ ngày 12 đến 15 tháng Giêng. Trước khi chuẩn bị vào hội, các giáp đi sưu tầm, mua những cây luồng, bương to với chiều cao không dưới 25m để về làm cây nêu. Cây nêu dựng lên có ý nghĩa ngăn ngừa không cho quỷ dữ từ Biển Đông vào đất liền quấy nhiễu cuộc sống của dân làng; mặt khác cũng là trục nối giữa Trời và Đất cầu mong cho một cuộc sống yên bình hơn.