Vỏ bầu khô là vật dụng không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của đồng bào dân tộc Ba Na ở thành phố Kon Tum. Vỏ bầu to người dân dùng để đựng nước uống, đựng cháo mang đi làm rẫy hay cất giữ hạt giống; vỏ bầu nhỏ được cắt ra làm muỗng múc canh, múc rượu hay đơn giản là kết thành chiếc chuông gió trang trí trước cửa nhà…
Chiều muộn, khi chúng tôi đến làng Kon Jơ Dri (xã Đăk Rơ Wa, thành phố Kon Tum) thì bà con nơi đây cũng bắt đầu đi rẫy về. Đã thành thói quen, nhiều phụ nữ thường ghé giọt nước của làng rửa chân tay rồi lấy nước về nấu cơm. Nước được phụ nữ đựng trong những vỏ bầu, cho vào gùi rồi mang về nhà.
Bà Y Mai ở làng Kon Jơ Dri cho biết: Vỏ bầu khô là vật dụng thân thuộc trong đời sống của đồng bào Ba Na trước đây. Vỏ bầu khô thường được người dân dùng để chứa nước lấy từ giọt mang về nhà; đựng nước, đựng cháo khi đi làm rẫy; những người khéo tay còn biết chế tác vỏ bầu kết hợp với các nguyên liệu khác thành các loại nhạc cụ… Giờ tuy ít được sử dụng hơn, nhưng một số gia đình vẫn dùng vỏ bầu để đựng nước mang đi làm, đựng rượu đãi khách hay để trưng bày cho đẹp.
16 thg 6, 2019
Những bí ẩn còn dưới lòng đất
Theo các chuyên gia đánh giá, vùng đất thôn Dương Quang, xã Đức Thắng (Mộ Đức) là nơi còn ẩn chứa nhiều bí ẩn dưới lòng đất liên quan đến di sản văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa và là nơi sinh sống của những dòng họ Việt lớn. Tại đây, người dân vẫn còn gìn giữ nếp văn hóa, sinh hoạt đặc trưng của vùng nông thôn miền Trung từ bao đời nay.
Tiến sĩ Đoàn Ngọc Khôi – Phó Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp tỉnh cho hay: Năm 2008, tôi đã khảo sát, nghiên cứu tại thôn Dương Quang và nhận thấy đây là vùng đất có những điều kiện thích hợp để người tiền sử sinh sống. Bởi một phía là biển, một bên là vùng nước ngọt, nằm tựa dưới chân núi Long Phụng, vì thế con người cư trú từ sớm.
Tiến sĩ Đoàn Ngọc Khôi – Phó Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp tỉnh cho hay: Năm 2008, tôi đã khảo sát, nghiên cứu tại thôn Dương Quang và nhận thấy đây là vùng đất có những điều kiện thích hợp để người tiền sử sinh sống. Bởi một phía là biển, một bên là vùng nước ngọt, nằm tựa dưới chân núi Long Phụng, vì thế con người cư trú từ sớm.
Quần thể thắng cảnh núi Long Phụng trải dài qua 3 thôn Dương Quang, Gia Hòa, Tân Định ở xã Đức Thắng (Mộ Đức).
Gìn giữ gian nhà xưa
Nằm trầm mặc trong một con hẻm của thị trấn Mộ Đức (Mộ Đức), căn nhà hơn 150 tuổi của vợ chồng ông Phạm Văn Thọ vẫn giữ nguyên vẹn nét cổ xưa. Ông Thọ xem đây như một “báu vật” cha ông để lại.
Gian nhà vô giá
Căn nhà gỗ của ông Thọ đã nhuốm màu thời gian, nằm bình yên, im lìm sau những gốc mai, tùng và bồ đề cổ thụ. Đưa chúng tôi tham quan một vòng căn nhà, ông Thọ cho hay: Căn nhà này được xây dựng từ thời ông nội tôi. Hồi đó làm nhà chưa có máy móc, nên từ khi tiến hành đến lúc hoàn thành phải mất một năm ròng rã. Đến bây giờ, tất cả các hoa văn, họa tiết và kết cấu ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn.
Gian nhà vô giá
Căn nhà gỗ của ông Thọ đã nhuốm màu thời gian, nằm bình yên, im lìm sau những gốc mai, tùng và bồ đề cổ thụ. Đưa chúng tôi tham quan một vòng căn nhà, ông Thọ cho hay: Căn nhà này được xây dựng từ thời ông nội tôi. Hồi đó làm nhà chưa có máy móc, nên từ khi tiến hành đến lúc hoàn thành phải mất một năm ròng rã. Đến bây giờ, tất cả các hoa văn, họa tiết và kết cấu ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn.
Ngôi nhà cổ của ông Thọ đã hơn 150 tuổi.
'Báu vật' trong gian bếp của người Thái Nghệ An
“Mò nừng” là một phần trong bộ công cụ đồ xôi của người Thái.
Ngày nay, cộng đồng người Thái đã và đang có những thay đổi nhất định trong các sinh hoạt, ăn uống, nhưng gạo nếp vẫn đóng vai trò là lương thực quan trọng. Vì thế mà dụng cụ đồ xôi vẫn khá phổ biến ở những gia đình người Thái.
Ngày nay, cộng đồng người Thái đã và đang có những thay đổi nhất định trong các sinh hoạt, ăn uống, nhưng gạo nếp vẫn đóng vai trò là lương thực quan trọng. Vì thế mà dụng cụ đồ xôi vẫn khá phổ biến ở những gia đình người Thái.
Phụ nữ Thái thường dùng mò nừng để hông xôi. Ảnh: Hữu Vi
Từ nhiều thế hệ nay, bộ dụng cụ này không hề thay đổi. Nó gồm 2 phần, phía trên là một ống gỗ hình trụ, đường kính từ 20 - 30 cm, cao trên 40 cm được khoét từ cây sung và một số loài gỗ mọc ven sông suối khác. Tiếng Thái gọi là “hay” hoặc là “khay”.
Võ tướng đất Hoan Châu chỉ huy vạn quân đào sông, đắp lũy chỉ trong 1 đêm
Năm 1591, chỉ trong 1 đêm, vị tướng trấn thủ đất Hoan Châu này đã dẫn hàng vạn quân đào xong sông gọi là "Sông Nhà Mạc" và đắp nhiều thành lũy gọi là "Nhất dạ thành" ở vùng Duyên Hà, Hậu Tái, Thái Bình.
Võ tướng trấn thủ đất Hoan Châu
Nằm gần dòng Lam giang, miếu Tiên Đô hay còn gọi là đền Tiên Đô thuộc làng Đặng Lâm, xã Đặng Sơn, huyện Đô Lương là nơi thờ Mạc Đăng Lượng, tự là Cát Giang Tử, tước hiệu Minh Nghĩa Đại Vương.
Trong suốt 14 năm trấn thủ đất Hoan Châu, ông đã xây dựng nơi đây thành một vùng đất trù phú, lương thực đầy đủ, ngành nghề phát triển, đời sống nhân dân no ấm.
Võ tướng trấn thủ đất Hoan Châu
Nằm gần dòng Lam giang, miếu Tiên Đô hay còn gọi là đền Tiên Đô thuộc làng Đặng Lâm, xã Đặng Sơn, huyện Đô Lương là nơi thờ Mạc Đăng Lượng, tự là Cát Giang Tử, tước hiệu Minh Nghĩa Đại Vương.
Trong suốt 14 năm trấn thủ đất Hoan Châu, ông đã xây dựng nơi đây thành một vùng đất trù phú, lương thực đầy đủ, ngành nghề phát triển, đời sống nhân dân no ấm.
Nhà thờ họ Hoàng Trần được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia, nơi thờ thần tổ Mạc Đăng Lượng. Ảnh: Ngọc Phương
7 thg 6, 2019
Dẻo thơm bánh dày Quán Gánh, Nhị Khê - Hà Nội
Xe đi dọc trên đường Quốc lộ 1 đến cửa ngõ Hà Nội, du khách sẽ dễ dàng nhìn thấy tại đây có hơn 100 quán nhà lá bày bán bánh dày. Đây cũng là địa điểm đông nhất và là nơi khai sinh ra chính là Quán Gánh.
Lịch sử nghề bánh dày Quán Gánh được tương truyền lại bằng một câu chuyện đầy màu sắc huyền thoại, rằng ngày xưa có một người ăn mày đi qua đây, được dân làng đối xử tử tế. Người ấy đã cảm kích và dạy cho dân làng cách làm bánh dày. Sau mới biết đó là một ông vua vi hành.
Thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín – phố Quán Gánh là quê hương của anh hùng dân tộc – danh nhân thế giới Nguyễn Trãi.
Lịch sử nghề bánh dày Quán Gánh được tương truyền lại bằng một câu chuyện đầy màu sắc huyền thoại, rằng ngày xưa có một người ăn mày đi qua đây, được dân làng đối xử tử tế. Người ấy đã cảm kích và dạy cho dân làng cách làm bánh dày. Sau mới biết đó là một ông vua vi hành.
Cháo canh - đặc sản khiến thực khách lầm tưởng ở xứ Nghệ
Món ăn nổi tiếng ở Nghệ An không phải là sự kết hợp giữa bánh canh và cháo như tên gọi.
Nếu không biết, nhiều người sẽ nghĩ đặc sản này là một loại cháo. Tuy nhiên vẻ ngoài của món trông khá giống bánh canh. Đến Nghệ An, đặc biệt là thành phố Vinh, du khách dễ dàng tìm thấy nơi bán món này. Người xứ Nghệ ăn cháo canh vào bất kỳ bữa nào trong ngày.
Nếu không biết, nhiều người sẽ nghĩ đặc sản này là một loại cháo. Tuy nhiên vẻ ngoài của món trông khá giống bánh canh. Đến Nghệ An, đặc biệt là thành phố Vinh, du khách dễ dàng tìm thấy nơi bán món này. Người xứ Nghệ ăn cháo canh vào bất kỳ bữa nào trong ngày.
Cháo canh là món ăn du khách phải thử khi có dịp ghé thăm Nghệ An. Ảnh: Di Vỹ.
Theo chủ một quán ăn lâu năm ở Vinh, sở dĩ món ăn mang tên "cháo canh" do nước dùng phải nấu để đạt độ sánh như cháo. Sợi bánh cho vào đun sôi lại vài phút rồi vớt ra chứ không chỉ nhúng qua nước sôi như cách nấu bún hay phở ở miền Bắc.
Nhớ thương bánh chập chập
Chỉ cần thoáng nghe hương vị của những chiếc xe sắn hấp dừa, của những bếp than sắn nướng, một khoảng trời thương nhớ lại ùa về với món bánh chập chập mộc mạc, chân phương.
Bánh chập chập có thể chấm với mắm cái cá cơm. Thanh Ly
Lâu, rất lâu rồi! Những ngày tôi còn ở cùng với ba má nơi vùng núi cao xứ Quảng. Ngày ấy quê tôi còn nghèo lắm. Nhà ai cũng cố gắng tích trữ nhiều lúa, khoai và đặc biệt là bột sắn để mùa đông tới trong những ngày lạnh lẽo có cái để ăn thêm. Thực đơn bột sắn của má cũng chỉ loanh quanh món bánh chập chập, ấy vậy mà mỗi khi làm bánh cả nhà quây quần, vui đáo để.
6 thg 6, 2019
Êm đềm Cồn Hến Vĩ Dạ xưa
Du khách sẽ biết đến một thôn Vĩ Dạ mộng mơ với cảnh vật nên thơ, có bến sông trăng, có vườn xanh mát như ngọc, có hàng cau đón nắng mới…
Vĩ Dạ là một địa danh của xứ Huế. Làng Vĩ Dạ xưa có tên là Vĩ Dã. Có thể do cách phát âm của người Huế mà Vĩ Dã đã được nghe thành Vĩ Dạ.
Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, vào thế kỷ 18, thời các chúa Nguyễn, Vĩ Dã xưa gồm hai xã: Vĩ Dã Hạ và Vĩ Dã Thượng, thuộc tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa.
Vĩ Dạ là một địa danh của xứ Huế. Làng Vĩ Dạ xưa có tên là Vĩ Dã. Có thể do cách phát âm của người Huế mà Vĩ Dã đã được nghe thành Vĩ Dạ.
Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, vào thế kỷ 18, thời các chúa Nguyễn, Vĩ Dã xưa gồm hai xã: Vĩ Dã Hạ và Vĩ Dã Thượng, thuộc tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong, xứ Thuận Hóa.
Dòng Hương Giang thơ mộng ôm trọn thôn Vĩ Dạ.
Lễ Cầu an tại Miếu Bà Ngũ hành Tân Nhơn
Vào ngày 20/3 âm lịch hàng năm, Lễ Cầu an diễn ra linh đình tại Miếu Bà Ngũ hành Tân Nhơn khu vực quận 9, TP.HCM. Đây không những là dịp để người dân trong địa phương gửi gắm khát vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mùa màng tươi tốt… mà còn bày tỏ sự biết ơn của nhân dân đối với các vị phúc thần đã luôn chở che cho con người.
Tương truyền, các ngôi miếu Bà là những ngôi thờ tự đầu tiên ở thôn, làng từ lúc khai thiên lập địa, cho nên lịch sử hình thành của miếu cũng từ rất lâu đời. 5 vị phúc thần Ngũ Hành tại đây được tôn thờ trong dân gian tin rằng các Bà có những quyền năng phù hộ độ trì cho chúng sinh đối với nhiều nghành nghề liên quan đến đất đai, củi lửa, kim khí, nước nôi và cây,gỗ…
Tại Miếu Bà Ngũ hành Tân Nhơn, bài vị thờ cúng được người dân đúc bằng xi măng, mỗi vị phúc thần đều có màu sơn riêng biệt từ thân tượng cho đến y áo, khăn choàng khoác ngoài…
Tại Miếu Bà Ngũ hành Tân Nhơn, bài vị thờ cúng được người dân đúc bằng xi măng, mỗi vị phúc thần đều có màu sơn riêng biệt từ thân tượng cho đến y áo, khăn choàng khoác ngoài…
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)







