12 thg 2, 2013

Báu vật hoàng cung

Báu vật hoàng cung là những vật quý hiếm thuộc quyền sở hữu của hoàng gia như: ngọc tỉ truyền quốc, kim ấn, bảo kiếm... Hoàng cung vốn bí ẩn với người đời, nên bảo vật trong hoàng cung lại càng bí ẩn hơn, đến nỗi những người biết đến và được chiêm ngưỡng những bảo vật này hàng trăm năm qua cơ hồ chỉ có mấy người. Chính vì vậy những bảo vật này luôn phủ một bức màn bí ẩn, thậm chí nhiều người cho rằng chúng đã sớm không còn tồn tại hoặc đang nằm ở các bảo tàng, bộ sưu tập trên thế giới chứ không còn ở Việt Nam.

Thật may mắn, qua nhiều thăng trầm của lịch sử, những bảo vật của các triều đại Lê (1428-1788), Nguyễn (1802-1945): ấn vàng, kiếm vàng, sách vàng, đồ ngự dụng bằng vàng, ngọc... có số lượng tới hàng trăm chiếc vẫn còn được bảo quản, gìn giữ nguyên vẹn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Đây là những bảo vật vô giá của nhân dân Việt Nam, không những chứa đựng những giá trị lịch sử, văn hóa phong phú mà còn phản ánh tài nghệ khéo léo của các nghệ nhân cung đình qua từng thời đại.

Bộ sưu tập hiện vật Bảo vật Hoàng cung bao gồm những báu vật liên quan tới đời sống của các vua, hoàng hậu triều Nguyễn (1802-1945) được bàn giao từ triều đình nhà Nguyễn cho Đại diện lâm thời Chính phủ Việt Nam. Năm 1961, lần đầu tiên những hiện vật này được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam trưng bày tại Thủ đô Hà Nội.

Ấn vàng của vua nhà Nguyễn (thế kỉ XIX).

Thiên Đường trong lòng đất

Động Thiên Đường thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình là một trong những hang động nằm trong vùng lõi núi đá vôi của Di sản Thiên nhiên Thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Động Thiên Đường được các chuyên gia hang động đánh giá là một trong những hang động đẹp nhất thế giới.

Năm 2005, trong một chuyến thám hiểm tại khu vực Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, các nhà thám hiểm thuộc Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh đã phát hiện ra một hang động lạ. Hang có lối vào rất hẹp, chỉ vừa một người chui, nhưng khi bước vào phía bên trong, các nhà thám hiểm đã vô cùng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp và kích thước kì vĩ của nó với nhiều khối thạch nhũ lung linh, kì ảo. Và họ đã đặt tên cho nó là động Thiên Đường.

Lối vào động Thiên Đường như đi xuống lòng đất.

11 thg 2, 2013

Chùa Thơ Mít

Ở xã Vĩnh Trung, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang có một ngôi chùa nổi tiếng của đồng bào Khmer, đó là chùa Thơ Mít.

Ngôi chùa bề thế trang nghiêm nằm giữa một khuôn viên rộng. Lối kiến trúc của chùa Thơ Mít nổi bật với mái cong, nóc nhọn, tháp cao vút cùng nhiều chi tiết chạm khắc công phu, tinh tế. Đây là nơi để cho bà con Phật tử đến sinh hoạt, vui chơi trong các dịp lễ hội. 

Với người Khmer Nam Bộ, ba thế hệ thường chung sống trong một nhà theo tín ngưỡng của Phật giáo Tiểu thừa nên mọi nghi thức lễ hội, đón mừng năm mới đều diễn ra ở các ngôi chùa cổ kính, mang đậm màu sắc đạo Phật, và chùa Thơ Mít chính là một ngôi chùa như thế. 

Cổng chùa Thơ Mít.

Trên dòng sông Thu

Từ đại ngàn Trường Sơn, trước khi đổ về biển lớn, con sông Thu Bồn không chỉ bồi đắp cho mảnh đất xứ Quảng chất đất phù sa màu mỡ mà còn góp phần tạo dựng nên nhiều dấu ấn văn hóa rực rỡ, trong đó có Di sản Văn hóa Thế giới Thánh địa Mỹ Sơn và phố cổ Hội An.

Con sông Thu Bồn khởi nguyên từ những dòng suối nhỏ chảy qua các cánh rừng nức mùi hương quế và loài sâm quý Ngọc Linh trên đỉnh núi Ngọc Linh cao hơn 2.500m nằm giữa đại ngàn Trường Sơn, thuộc địa phận huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. Từ đó cho đến địa bàn các huyện Tiên Phước, Hiệp Đức, con sông mang một cái tên quê mùa, dân dã: sông Tranh. Phải đến địa bàn huyện Quế Sơn và Duy Xuyên, khi hợp lưu với sông Vu Gia, nó mới trở thành một dòng sông chững chạc với danh xưng: Thu Bồn.



Sông Thu Bồn bắt nguồn từ nhiều con suối nhỏ trên đỉnh núi Ngọc Linh giữa đại ngàn Trường Sơn. Ảnh: Nguyễn Phước Chính.

Về Bến Tre thăm Cồn Phụng

Giống như một ốc đảo xanh nổi trên sông Tiền, Khu du lịch sinh thái Cồn Phụng nằm trên một cù lao thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre đang là một trong những điểm đến hấp dẫn về du lịch sinh thái đối với du khách trong nước và quốc tế mỗi khi có dịp về thăm quê hương Đồng Khởi.

Cồn Phụng còn có tên là cồn Tân Vinh. Cồn Phụng lúc đầu chỉ là một cù lao nổi giữa sông Tiền vào những năm 1930 với diện tích khoảng 28 ha, nhưng do lượng phù sa bồi đắp dồi dào mỗi năm mà nay đã lên tới trên 50 ha.

Đây là một trong bốn cồn nằm trên đoạn sông Mĩ Tho được đặt theo quan niệm tứ linh mang điềm an lành hạnh phúc là: long, lân, quy, phụng. Cồn Rồng là "long", cồn Thới Sơn là "lân", cồn Quy (nằm phía sông Ba Lai) là "quy", và Cồn Phụng (còn gọi là cù lao Đạo Dừa) là "phụng". Tên Cồn Phụng có từ khi ông Nguyễn Thành Nam đến đây xây dựng chùa Nam Quốc Phật vào hồi đầu thế kỉ XX. Khi công trình này đang xây dựng, những người thợ nhặt được một cái chén cổ có hình con chim Phụng, nên đặt tên là Cồn Phụng. Ngoài ra, sở dĩ nó còn có tên gọi khác là cù lao Đạo Dừa là do ông Nguyễn Thành Nam khi đến đây xây chùa Nam Quốc Phật, đã thành lập nên một giáo phái gọi là Đạo Dừa. Đạo Dừa chủ trương mang lại hoà bình, sống bằng hoa trái.

Khu du lịch sinh thái Cồn Phụng là một điểm du lịch hấp dẫn với du khách trong nước và quốc tế mỗi khi có dịp về thăm quê hương Đồng Khởi. (Ảnh: Nguyễn Luân)

Chợ Cán Cấu ngày xuân

Khi hoa đào nở trên khắp các sườn núi Tây Bắc, cũng là lúc phiên chợ Cán Cấu (huyện Simacai – tỉnh Lào Cai) lại rực lên sắc màu trang phục của các chàng trai, cô gái H’Mông, Giáy.. hòa lẫn với sắc xuân. Tiếng ngựa bồn chồn giậm chân hí vang, tiếng nói, tiếng cười lanh lảnh trong buổi sớm dập dìu kéo nhau đi chợ.

Chợ họp mỗi tuần một lần trên một triền đồi bên cạnh quốc lộ vào trung tâm xã Cán Cấu. Từ tinh mơ, trên những con đường đất đã thấy bóng người và những chú ngựa gùi hàng rậm rịch đến chợ, đông đúc chẳng khác đi trẩy hội ở miền xuôi. Đây là phiên chợ đông vui, tấp nập nhất, cũng là phiên chợ lớn của cộng đồng người dân tộc thiểu số sinh sống quần tụ tại huyện Bắc Hà, Simacai như người H’Mông, người Giáy, người Dao… 

Bản làng Tây Bắc ngày xuân.

Nên thơ núi Cấm

Núi Cấm còn có tên là Thiên Cấm Sơn, được người đời ví là Thiên Cẩm Sơn (núi đẹp như gấm lụa), một ngọn núi cao và hùng vĩ nhất của vùng Thất Sơn, nằm trong khu tam giác Tịnh Biên-Nhà Bàng-Tri Tôn, thuộc xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, An Giang. Nơi đây phong cảnh hữu tình như một bức tranh sơn thủy làm xao xuyến tâm hồn du khách trong nước và quốc tế mỗi dịp ghé thăm.

Có rất nhiều giai thoại để giải thích tên núi Cấm. Núi Cấm hay Cấm Sơn là tên gọi chính thức bằng văn tự đầu tiên xuất hiện trong Đại Nam nhất thống chí được biên soạn vào cuối thế kỉ XIX. Sách miêu tả rằng: “...thế núi cao ngất, cây cối tươi tốt, là một trong bảy núi. Vì núi cao nên ít người lên đến chót”. Còn trước đó, theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, ngọn núi này được gọi là núi Đoài Tốn, và tác giả cho biết núi cao 50 trượng, chu vi 20 dặm dư hình như cái đài cao, nghiễm nhiên ở về cung Thìn Tỵ nên gọi là núi Đài Tốn...

Núi Cấm ở độ cao 705m, chiếm chu vi 28.600m. Ngày nay đã trở thành một khu du lịch tuyệt vời nhờ có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Khí hậu trên núi Cấm chịu ảnh hưởng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình 25oC. Lí tưởng nhất là vào mùa xuân, cây cối xanh tươi, sản vật dồi dào, khí hậu mát mẻ trong lành. Trên các vồ núi cao, trời về đêm lành lạnh, sáng sớm sương trắng phủ đầy, mây chiều là đà vương đầu núi. Từ trên các đỉnh cao, khách tham quan có thể phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh những cánh đồng lúa mênh mông đến tận vùng biển Hà Tiên và biên giới Tây Nam.

Chùa Phật Lớn tại núi Cấm Sơn.

Đệ nhất hùng quan

Nằm ở khu vực trung tâm của miền Trung, đèo Hải Vân không chỉ được ví như chiếc đòn gánh với hai đầu là hai bãi biển đẹp nhất thế giới, mà còn được người xưa mệnh danh là “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”.

Trên con đường thiên lí Bắc Nam, ngăn cách giữa hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng có một ngọn đèo cao chắn ngang, dài chừng hơn 20 cây số, đường đi ngoằn ngoèo vô cùng hiểm trở, ấy chính là đèo Hải Vân.

Thời Nguyễn, năm 1826, vua Minh Mạng (1791-1840) đã cho xây trên đỉnh đèo Hải Vân một tòa thành và cửa ải để làm nơi canh gác giặc cướp. Trên vòm cửa ải phía Bắc có treo tấm biển lớn bằng đá cẩm thạch khắc ba chữ Hán lớn là “Hải Vân Quan”, còn phía Nam lại có tấm biển khắc sáu chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”, có nghĩa là quan ải hùng vĩ nhất thiên hạ.

Cổng Hải Vân Quan trên đỉnh đèo Hải Vân. 

Hồ Na Hang

Na Hang là huyện vùng cao của tỉnh Tuyên Quang. Nơi đây có hồ Na Hang nay vẫn còn vẹn nguyên vẻ hoang sơ của một miền sơn cước. Trong nhiều năm gần đây, vẻ đẹp kì ảo của hồ Na Hang đã dần được đánh thức và trở thành một sản phẩm du lịch đặc sắc.

Trung tâm huyện Na Hang có hồ Na Hang, hai bên bờ có nhiều núi và những ngôi đền cổ. Núi Pắc Tạ, ngọn núi cao nhất ở Na Hang, có hình như chú voi cúi đầu bên nậm rượu, đổ bóng xuống mặt nước hồ xanh. Dưới chân núi Pắc Tạ có một ngôi đền cổ thờ người thiếp của tướng quân Trần Nhật Duật (TK XIII). Đền đẹp và nổi tiếng linh thiêng, là điểm đến khó quên của du khách khi đến Na Hang. 

Hồ Na Hang còn được ví như một “Hạ Long giữa đại ngàn”. Nơi đây có tới 99 ngọn núi quần tụ lại với nhau ở khu vực xã Thượng Lâm. Mỗi ngọn núi có một hình dáng khác nhau, tất cả in hình lên nền trời xanh, hòa lẫn với làn nước xanh thăm thẳm, khiến du khách không khỏi ngỡ ngàng trước sự kì diệu của tạo hóa.

Vẻ đẹp hoang sơ của hồ Na Hang.

Về Lam Kinh

Từ thành phố Thanh Hóa, ngược lên phía Tây Bắc chừng 50 km, dưới những tán rừng xanh um của xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa du khách sẽ được chiêm bái một quần thể di tích nổi tiếng gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của vua Lê Thái Tổ và cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn hồi thế kỉ XV.

Sau 10 năm lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc phương Bắc giành thắng lợi, năm 1428 Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Lê Thái Tổ, đóng đô ở Đông Kinh (Thăng Long). Đồng thời cho xây dựng ở quê hương đất tổ nơi vùng rừng núi hẻo lánh Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hóa một kinh thành gọi là Lam Kinh hay còn gọi là Tây Kinh (phân biệt với Đông Kinh).

Theo sử sách và bằng chứng từ các cuộc khai quật cho thấy, thành Lam Kinh được xây dựng khá quy mô với lối kiến trúc “nội công, ngoại quốc” gồm hoàng thành, thái miếu, ngọ môn, sân rồng, nhà tả vu, hữu vu… Thành Lam Kinh phía Bắc tựa vào núi Dầu, phía Nam hướng về sông Chu, trước có núi Chúa làm tiền án, bên tả có rừng Phú Lâm, bên hữu có núi Hương. Nơi đây có nhiều công trình xây dựng khá nguy nga, tráng lệ như ngọ môn, thái miếu, sân rồng, chính điện...

Du khách tham quan khu Thái Miếu. Ảnh: Trần Thanh Giang