Hiển thị các bài đăng có nhãn Đồng bằng sông Cửu Long. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đồng bằng sông Cửu Long. Hiển thị tất cả bài đăng

20 thg 5, 2022

Đậm đà hương vị mắm cá lia thia

Long An có nhiều đặc sản như đậu phộng Đức Hòa, bánh in Long Hựu, cốm ngò Cần Giuộc,... trong đó, phải kể đến mắm cá lia thia - món ăn dân dã, quen thuộc đã trở thành đặc sản của người dân bưng biền Đức Huệ.

Cá lia thia là loại cá nước ngọt, thường sống trong vùng bưng biền Đức Huệ, có kích thước nhỏ, con lớn thường dài 10cm. Ngày xưa, người dân chỉ cần ra sau vườn giậm cù (dồn cá lại rồi bao vây, lấy rổ xúc cá) là có cá ăn không hết. Thấy vậy, người dân sáng tạo ra làm mắm cá lia thia để đổi khẩu vị hoặc làm quà tặng người thân, bạn bè nhân các dịp lễ, tết.

Mới nghe qua, nhiều người thắc mắc con cá lia thia bé tí tẻo thường chỉ để đá hoặc chưng trong nhà, chứ ai làm mắm... Vậy mà chỉ cần thưởng thức mắm cá lia thia một lần thì chẳng thể nào quên được cái vị vừa bùi, vừa béo của món ăn dân dã, đồng quê này. Và cứ thế, nghề làm mắm cá lia thia ra đời từ lúc nào không hay, chỉ biết thế hệ này truyền đến thế hệ sau, góp phần làm phong phú thêm ẩm thực của người dân nơi đây.

Theo nhiều người sành ăn, mắm cá lia thia ăn nguyên chất là ngon nhất, chỉ cần cho thêm tỏi, ớt

Mắm binh tích - món ngon đặc trưng của miền quê Đức Huệ

Huyện Đức Huệ, tỉnh Long An vốn nổi tiếng với mắm lia thia. Đó được xem là đặc sản của miền quê Đức Huệ, ai nghe cũng muốn thử một lần. Nhưng ngoài mắm lia thia, Đức Huệ còn một loại mắm đặc sản khác, có mặt lâu đời hơn cả mắm lia thia nhưng lại ít có người ngoài địa phương biết đến. Đó là mắm binh tích.

Có kinh nghiệm gần 20 năm làm mắm, chị Võ Thị Hồng Thắm cho biết mắm binh tích được người dân địa phương ưa chuộng, chọn làm quà tặng cho bạn bè phương xa

16 thg 5, 2022

Về Long An ghé đình Vạn Phước nghe đờn ca tài tử Nam bộ

 Mỗi năm vào đúng 3 ngày 17, 18 và 19 tháng giêng, đình Vạn Phước rộn ràng tiếng đờn, lời ca các nghệ nhân của nhiều ban nhạc đờn ca tài tử từ các địa phương hội tụ vể đây giao lưu nhân ngày Lễ Cầu an, Lễ giỗ của Đốc binh Nguyễn Quang Là và đức Nghệ nhân Đờn ca tài tử Nguyễn Quang Đại.


Đình Vạn Phước toạ lạc trên khu đất rộng 4.768 m² thuộc ấp Vạn Phước, xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước, tỉnh Long An.

Đình Vạn Phước toạ lạc trên một khu đất rộng 4.768 m², diện tích xây dưng 255 m², ấp Vạn Phước, xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước, tỉnh Long An.

Theo sách Gia Định Thành thông chí của Trịnh Hoài Đức viết năm 1820 cũng như Địa bạ tỉnh Gia Định năm 1836, thì xã Mỹ Lệ ngày nay trước kia gồm 3 làng, trong đó có (làng) Vạn phước Phường thuộc tổng Phước Điền Thượng, huyện Phước Lộc, phủ Tân Bình, trấn Phiên An.

Ngôi đình có tên Vạn Phước có lẽ từ tên Vạn Phước phường ngày xưa.

15 thg 5, 2022

Bên những dòng kênh đào huyền thoại - Cần quan tâm đầu tư cho đường thủy

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 100 trục kênh cấp 1, dài 6.500 km cùng hơn 36.000 km kênh cấp 2, 3. Bình quân mỗi kilômét vuông ở miền Tây có khoảng 1,4km kênh đào. Từ một vùng hoang hóa kém phát triển, trong vòng 200 năm (từ năm 1700 đến 1930), nơi này có trên 40 kênh đào lớn, nhỏ do triều đình phong kiến lẫn người Pháp thi công. Các kênh này có vai trò quan trọng là thông thương, đưa nước ngọt vào đồng ruộng để nâng cao năng suất mùa vụ. Chúng tôi đã có chuyến hành trình dọc theo những dòng kênh lịch sử, từ Bảo Định, kênh đào đầu tiên thời phong kiến ở miền Nam, đến những dòng kênh có vai trò “thủy lộ” như Vĩnh Tế, Xà No, Chợ Gạo, Dương Văn Dương để kể lại câu chuyện khai hoang, trị thủy của bậc tiền nhân hàng trăm năm trước.

Cần quan tâm đầu tư cho đường thủy

Chủ tịch Hiệp hội Vận tải thủy nội địa Việt Nam - Trần Đỗ Liêm nhận định, bình quân mỗi năm, ngân sách đầu tư cho đường thủy nội địa chỉ khoảng 2%, chưa tương xứng với những tiềm năng mà đường thủy mang lại.

Bên những dòng kênh đào huyền thoại - Hành trình giữ đất bên bờ kênh Chợ Gạo

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 100 trục kênh cấp 1, dài 6.500 km cùng hơn 36.000 km kênh cấp 2, 3. Bình quân mỗi kilômét vuông ở miền Tây có khoảng 1,4 km kênh đào. Từ một vùng hoang hóa kém phát triển, trong vòng 200 năm (từ năm 1700 đến 1930), nơi này có trên 40 kênh đào lớn, nhỏ do triều đình phong kiến lẫn người Pháp thi công. Các kênh này có vai trò quan trọng là thông thương, đưa nước ngọt vào đồng ruộng để nâng cao năng suất mùa vụ. Chúng tôi đã có chuyến hành trình dọc theo những dòng kênh lịch sử, từ Bảo Định, kênh đào đầu tiên thời phong kiến ở miền Nam, đến những dòng kênh có vai trò “thủy lộ” như Vĩnh Tế, Xà No, Chợ Gạo, Dương Văn Dương để kể lại câu chuyện khai hoang, trị thủy của bậc tiền nhân hàng trăm năm trước.

Hành trình giữ đất bên bờ kênh Chợ Gạo


Năm 1876, người Pháp sau khi chiếm đóng Nam kỳ đã cho đào kênh Chợ Gạo nối sông Tiền và sông Vàm Cỏ, tạo ra tuyến đường thủy ngắn nhất từ Sài Gòn đi miền Tây. Sau hàng trăm năm khai thác, kênh hiện bị sạt lở nặng. Người dân sống hai bên bờ kênh đồng thuận với chính quyền địa phương để di dời nhà, nhường đất cho dự án bờ kè ngàn tỉ đồng.

Bên những dòng kênh đào huyền thoại - Trăm năm “con đường lúa gạo” Xà No

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 100 trục kênh cấp 1, dài 6.500 km cùng hơn 36.000 km kênh cấp 2, 3. Bình quân mỗi kilômét vuông ở miền Tây có khoảng 1,4km kênh đào. Từ một vùng hoang hóa kém phát triển, trong vòng 200 năm (từ năm 1700 đến 1930), nơi này có trên 40 kênh đào lớn, nhỏ do triều đình phong kiến lẫn người Pháp thi công. Các kênh này có vai trò quan trọng là thông thương, đưa nước ngọt vào đồng ruộng để nâng cao năng suất mùa vụ. Chúng tôi đã có chuyến hành trình dọc theo những dòng kênh lịch sử, từ Bảo Định, kênh đào đầu tiên thời phong kiến ở miền Nam, đến những dòng kênh có vai trò “thủy lộ” như Vĩnh Tế, Xà No, Chợ Gạo, Dương Văn Dương để kể lại câu chuyện khai hoang, trị thủy của bậc tiền nhân hàng trăm năm trước.

Bài 3: Trăm năm “con đường lúa gạo” Xà No

121 năm trước, từ một cánh đồng hoang rộng hàng trăm ngàn hécta, người Pháp cho đào kênh xáng Xà No nối Cần Thơ - Kiên Giang. Nhờ có kênh, đất hoang được cải tạo, năng suất lúa tăng, nông sản thuận tiện vận chuyển. Kênh xáng Xà No vì vậy được ví như “con đường lúa gạo” miệt Hậu Giang cho đến ngày nay.

Bên những dòng kênh đào huyền thoại - Thoại Ngọc Hầu và kỳ tích Vĩnh Tế hà

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 100 trục kênh cấp 1, dài 6.500 km cùng hơn 36.000 km kênh cấp 2, 3. Bình quân mỗi kilômét vuông ở miền Tây có khoảng 1,4km kênh đào. Từ một vùng hoang hóa kém phát triển, trong vòng 200 năm (từ năm 1700 đến 1930), nơi này có trên 40 kênh đào lớn, nhỏ do triều đình phong kiến lẫn người Pháp thi công. Các kênh này có vai trò quan trọng là thông thương, đưa nước ngọt vào đồng ruộng để nâng cao năng suất mùa vụ. Chúng tôi đã có chuyến hành trình dọc theo những dòng kênh lịch sử, từ Bảo Định, kênh đào đầu tiên thời phong kiến ở miền Nam, đến những dòng kênh có vai trò “thủy lộ” như Vĩnh Tế, Xà No, Chợ Gạo, Dương Văn Dương để kể lại câu chuyện khai hoang, trị thủy của bậc tiền nhân hàng trăm năm trước.

Thoại Ngọc Hầu và kỳ tích Vĩnh Tế hà

Ngày nay, đi từ ngã ba sông Châu Đốc (An Giang) đến sông Giang Thành (Kiên Giang), nhìn dòng Vĩnh Tế dài 87km nằm sát Quốc lộ N1 thẳng tắp như kẽ chỉ, khó có thể tưởng tượng con kênh huyền thoại này được đào tay chỉ với cuốc, thuổng bởi hơn 80.000 người trong suốt 5 năm, là kênh đào quy mô nhất thời phong kiến.

Bên những dòng kênh đào huyền thoại - Bảo Định - Kênh đào đầu tiên ở đất phương Nam

Vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 100 trục kênh cấp 1, dài 6.500 km cùng hơn 36.000 km kênh cấp 2, 3. Bình quân mỗi kilômét vuông ở miền Tây có khoảng 1,4 km kênh đào. Từ một vùng hoang hóa kém phát triển, trong vòng 200 năm (từ năm 1700 đến 1930), nơi này có trên 40 kênh đào lớn, nhỏ do triều đình phong kiến lẫn người Pháp thi công. Các kênh này có vai trò quan trọng là thông thương, đưa nước ngọt vào đồng ruộng để nâng cao năng suất mùa vụ. Chúng tôi đã có chuyến hành trình dọc theo những dòng kênh lịch sử, từ Bảo Định, kênh đào đầu tiên thời phong kiến ở miền Nam, đến những dòng kênh có vai trò “thủy lộ” như Vĩnh Tế, Xà No, Chợ Gạo, Dương Văn Dương để kể lại câu chuyện khai hoang, trị thủy của bậc tiền nhân hàng trăm năm trước.

Bảo Định - Kênh đào đầu tiên ở đất phương Nam

Bảo Định là dòng kênh được đào đầu tiên ở Tây Nam bộ, gắn với thời kỳ người Việt đến khẩn hoang vùng đất này. Đây từng là tuyến giao thông trọng yếu giữa miền Đông và Tây Nam bộ. Sau thời gian dài bị “bỏ quên”, dòng kênh này đang được “đánh thức” trở lại để phục vụ phát triển kinh tế, du lịch,...

Dòng kênh hơn 300 năm tuổi

Bảo Định là kênh đào quy mô lớn đầu tiên ở Nam bộ, một trong những con kênh có vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển của TP.Tân An, tỉnh Long An và TP.Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Theo sách sử ghi chép lại, Nguyễn Cửu Vân chính là vị quan có công khai mở dòng kênh Bảo Định, giúp việc thông thương đi lại từ Vàm Cỏ Tây tới Tiền Giang được thuận lợi hơn. Trên dòng kênh đó có đoạn giáp nước, lênh đênh lơ lửng, nước không thể chảy mạnh, thuận tiện cho thuyền, ghe khách thương hồ nghỉ lại. Dựa trên lợi thế đó, khu vực Vũng Gù (Tân An xưa) dần phát triển.

Cửa sông Bảo Định đổ ra sông Vàm Cỏ Tây trên địa bàn TP.Tân An

Theo sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, trong phần Sơn xuyên chí có ghi về Bảo Định hà như sau: "Bảo Định hà (tục gọi kinh Vũng Gù)... cửa sông gối vào sông Hưng Hòa (tức sông Vàm Cỏ Tây), cách phía Đông Bắc trấn lỵ 47 dặm rưỡi. Trước đây, phía Đông Bắc, sông nhỏ Vũng Gù chảy đến quán Thị Cai là hết; phía Tây, sông nhỏ Mỹ Tho chảy đến chợ Lương Phú (tục gọi Bến Tranh, đất thôn Lương Phú) là hết; khoảng giữa là ruộng đất liên tiếp từ Nam đến Bắc".

Năm 1705, Chính Thống Vân Trường Hầu đi đánh Cao Miên, để ngăn quân địch quấy rối, ông cho đắp lũy, đào chỗ đầu cùng của hai khúc rạch Vũng Gù và Mỹ Tho cho thông nhau. Sau đó, ông lại cho đào sâu thêm thành đường ghe, thuyền đi lại. Trong Tân An xưa có ghi: “Sông Bảo Định nối liền Vàm Cỏ Tây qua Tiền Giang tại tỉnh lỵ Mỹ Tho".

Thời xưa, sông này là hai khúc rạch nhỏ nhờ Vân Trường Hầu là Nguyễn Cửu Vân nối liền cả hai làm một, thông thương từ Vũng Gù qua sông Mỹ Tho. Đến năm 1819, vua sai đào thêm và nới rộng, đặt tên là Bảo Định hà; ghe, tàu đi lại thuận tiện từ Tân An qua Mỹ Tho và các tỉnh miền Hậu Giang. Kể từ khi hoàn thành, kênh Bảo Định luôn giữ vai trò quan trọng về các mặt: Quân sự, thủy lợi, giao thông và cung cấp một phần nước sinh hoạt cho cư dân trong vùng.

Thành phố bên dòng Bảo Định

Trong ký ức của những người dân xưa, dòng Bảo Định cùng với Vàm Cỏ Tây là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người dân TP.Tân An. Dòng sông bồi đắp phù sa, hội tụ thương hồ, trù phú một thời. Dòng sông hẹn hò của tao nhân mặc khách, nhân tài hào kiệt,... Hơn 300 năm qua, kênh Bảo Định vẫn chở nặng những giá trị về kinh tế, lịch sử, văn hóa để bồi đắp và kiến tạo cho đôi bờ từ TP. Tân An đến TP. Mỹ Tho.

Liên thông thủy lưu hai dòng sông mẹ là sông Tiền và Vàm Cỏ Tây, sông Bảo Định xả phèn, biến vùng đất ngập trũng của các xã thuộc huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang và một số địa phương tỉnh Long An thành đất trồng lúa. Và bây giờ ở những khu vực này đang thành vùng đất vườn trồng được nhiều loại cây ăn trái có giá trị kinh tế cao. Dòng sông mang nặng ân tình như dòng sữa mát thơm cho Tây Nam bộ.

Kênh Dương Văn Dương dẫn nước ngọt phục vụ sản xuất cho huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An

Hiện tại, do nhu cầu thay đổi nên sông Bảo Định không còn giá trị giao thông toàn tuyến Cửu Long như xưa nữa. Trên tuyến sông này, chính quyền TP.Tân An từng bước xây cầu Bảo Định, kè kiên cố với cảnh quan hai bên bờ sông thông thoáng, xinh đẹp. Gần đây nhất, TP.Tân An tiếp tục đầu tư xây dựng đoạn từ kênh Vành đai đến đường Võ Văn Môn (song song đường Nguyễn Cửu Vân). Đường Nguyễn Cửu Vân chạy dọc theo bờ kênh Bảo Định như một lời tri ân về bậc tiền nhân có công gầy dựng nên vùng đất Vũng Gù đông đúc để về sau trở thành TP.Tân An như hiện nay.

Phó Chủ tịch UBND TP.Tân An - Võ Hồng Thảo cho biết, dự án Kè sông Bảo Định là 1 trong 3 công trình trọng điểm theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP. Tân An lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025. Dự án gồm các hạng mục: Xây dựng kè và công viên sau kè, các hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Công trình sau khi hoàn thành góp phần chỉnh trang đô thị, chống sạt lở bờ sông Bảo Định, tạo trục cảnh quan xanh, sạch, đẹp ven 2 bên bờ sông Bảo Định, góp phần cho thành phố đạt các tiêu chí đô thị loại I vào năm 2025 theo hướng đô thị thân thiện, văn minh, hiện đại.

Tại Long An, ngoài dòng kênh Bảo Định, còn có kênh Dương Văn Dương. Đây là con kênh lớn nhất, chảy qua địa bàn huyện Tân Thạnh. Trước đó, dòng kênh dài gần xuyên suốt vùng Đồng Tháp Mười có tên tiếng Pháp. Sau khi Dương Văn Dương hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã truy phong ông hàm Thiếu tướng và lấy tên ông đặt cho con kênh này. Kênh Dương Văn Dương nối liền các kênh Đông Điền, kênh Nguyễn Văn Tiếp, tỉnh Đồng Tháp và kênh Bắc Đông, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An. Từ dòng kênh này, nước có thể tỏa đi khắp nơi trong huyện, thông qua hệ thống các con rạch chằng chịt, liên thông nhau. Đây cũng là tuyến giao thông thủy quan trọng nhất Tân Thạnh, song song với Đường tỉnh 837. Dòng kênh này có ý nghĩa quan trọng đối với người dân Tân Thạnh khi dẫn nước ngọt từ sông Tiền về phục vụ sinh hoạt và sản xuất của huyện.


Nhà văn Sơn Nam từng nhận xét: Kênh không chỉ giúp ghe thuyền đi từ biển tới Cần Thơ dễ dàng mà còn đồng thời giúp cho hàng ngàn ngôi nhà mọc lên ven hai bên bờ. Nhưng không chỉ có những dòng kênh đi mở cõi, cách đây chừng hơn 30 năm, hàng trăm tuyến kênh ở vùng sâu hơn, xa hơn của biên giới Đồng Tháp Mười cũng được đào và đắp, hệ thống lại. Chính những dòng kênh này đã góp phần biến cả dải đất hoang vu Đồng Tháp Mười thành một vựa lúa lớn nhất cả nước và đó cũng là cột mốc biến Việt Nam từ nước thường xuyên thiếu gạo, trở thành nước xuất khẩu gạo lớn nhất, nhì thế giới cho tới tận ngày nay.

Thanh Nga - Thường Sơn

Quê hương Long An trong ca dao

Long An nằm ở cửa ngõ nối liền miền Đông Nam bộ với vùng đất chín rồng. Nơi đây có phong cảnh thiên nhiên hữu tình, trù phú với những cánh rừng tràm bạt ngàn, đồng ruộng tươi tốt, những vườn cây trái xum xuê, những dòng sông uốn lượn. Cùng với thiên nhiên đa dạng, con người Long An cũng thật hồn hậu, chân tình, anh dũng, kiên trung, mến khách. Vẻ đẹp của đất và người Long An từ lâu đã đi vào những câu ca dao ngọt ngào, trữ tình, thông qua đó, người dân Long An từ xa xưa đã bày tỏ niềm mến yêu sâu sắc đối với quê hương, niềm tự hào về những phẩm chất tốt đẹp của người Long An xuyên suốt chiều dài lịch sử.

Bằng cảm hứng ngợi ca và cách nói dung dị, các tác giả dân gian vô cùng khéo léo khi đưa những địa điểm nổi tiếng, những cái tên gợi nhớ đến Long An anh hùng vào ca dao. Đó là dòng sông Vàm Cỏ chảy xuôi cùng lịch sử: Anh muốn về Long An, Vàm Cỏ. Mấy lời em to nhỏ, anh bỏ sao đành hay địa danh Tầm Vu, Thủ Thừa qua câu ca dao: Gái Tầm Vu đồng xu ba đứa. Trai Thủ Thừa cưỡi ngựa xuống mua... Mỗi câu ca dao, địa danh được nhắc đến với một đặc trưng không thể lẫn lộn với bất kỳ vùng đất nào khác, mỗi địa danh như một sợi chỉ quý giá thêu dệt nên bức tranh Long An muôn màu muôn vẻ, đa dạng, phong phú.

9 thg 5, 2022

Ngã tư Đình - Nét son của phụ nữ Tân Chánh

Di tích lịch sử Ngã tư Đình thuộc ấp Đình, xã Tân Chánh, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Người dân trong xã quen gọi là bia Bà Tư - Bà Mười, 2 người phụ nữ anh hùng, đi đầu đoàn biểu tình, không sợ trước họng súng kẻ thù. Giặc bắn 2 bà để thị uy nhưng sự hy sinh của 2 bà đã tiếp thêm sức mạnh, đoàn người vẫn tiến lên phía trước khiến quân địch phải khiếp sợ.

Câu chuyện những người phụ nữ anh hùng

Phó Chủ tịch UBND xã Tân Chánh - Nguyễn Thành Nam kể: “Bà Tư tên Phạm Thị Xứng, bà Mười là Võ Thị Chơi. Hai bà hy sinh trong đợt đấu tranh chính trị năm 1961 tại ngã tư Đình nên người dân gọi bia Di tích lịch sử Ngã tư Đình là bia Bà Tư - Bà Mười. Mấy năm trước, khi các bác cựu chiến binh lớn tuổi còn sống, nhiều bác biết rõ về đợt biểu tình. Tôi được nghe kể lại, khi đoàn biểu tình đi đến mé ao, gần đình Tân Chánh thì địch tràn ra, đoàn thụt lùi lại, cờ bị rớt. Hai bà vượt lên cầm cờ tiến tới và bị bắn, bà con đỡ hai bà ra phía sau, đặt nằm tại bãi đất trống cạnh đó”.

Cây xanh được trồng quanh bia tạo cảnh quan xanh, sạch, đẹp

Tổ đình Kim Cang - Nơi đào tạo tăng tài vào thế kỷ XIX

Tổ đình Kim Cang thuộc ấp Bình Cang 1, xã Bình Thạnh, huyện Thủ Thừa, tirnh Long An là ngôi cổ tự uy nghi, bề thế. Đó có thể được xem là trung tâm Phật giáo, nơi đào tạo tăng tài vào thế kỷ XIX. Ngôi cổ tự này còn có câu chuyện đi cùng mang màu sắc liêu trai, thu hút, có thể trở thành điểm nhấn cho du lịch, đặc biệt là du lịch tâm linh.

Trụ trì Tổ đình Kim Cang - Thượng tọa Thích Tắc Quảng kể, xưa kia, chùa Kim Cang có tên là chùa Phước Long và không phải ở vị trí hiện tại. Chuyện được ghi chép lại rằng, khi ấy, Tổ Chánh Tâm vừa đến làm trụ trì chùa theo lời thỉnh cầu của người dân, thay cho vị trụ trì vừa viên tịch. Một ngày, ông nằm mộng, thấy thần Kim Cang bảo hãy dời chùa đến vị trí gần bờ sông thì ngôi già lam này sẽ được “phát dương quang đại”.

Hôm sau, khi đang ở trong vườn, Tổ Chánh Tâm thấy một con rắn lớn dữ tợn đuổi theo mình. Tổ chạy đến gần bờ sông thì kiệt sức ngồi nghỉ, nhìn lại không thấy con rắn đâu nữa. Lúc đó, có một cơn gió lớn thổi qua khiến lau, sậy nằm rạp xuống. Một khu đất trống hiện ra. Nghĩ rằng thần Kim Cang chỉ điểm xây dựng ngôi chùa tại đây nên Tổ Chánh Tâm dời chùa về vị trí gần bờ sông như hiện nay và lấy hiệu là Kim Cang.

Về Cần Giuộc, nhớ người nông dân nghĩa sĩ

Cần Giuộc là vùng đất có bề dày lịch sử, giàu truyền thống yêu nước. Trong buổi đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, tinh thần bất khuất, sự hy sinh anh dũng của 27 nghĩa quân (có tài liệu ghi 15 người) trong trận công đồn Tây Dương đêm 16/12/1861 đã hun đúc tinh thần yêu nước của quân và dân Cần Giuộc. Đây là “chất liệu sống” để nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu viết nên áng văn bất hủ - Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Trận đánh đưa người nông dân vào văn học

Trở về với những năm tháng bi hùng trong phong trào vũ trang kháng Pháp nửa cuối thế kỷ XIX, sau khi thành Gia Định và sau đó đại đồn Chí Hòa cũng thất thủ (tháng 02/1861), Pháp thừa thắng đánh lan ra và chiếm một số vùng xung quanh. Ở Long An, một mặt trận chống giặc hình thành rộng khắp từ Bến Lức qua Cần Đước, Cần Giuộc đến Tân An,... do các thủ lĩnh nghĩa quân: Nguyễn Trung Trực, Bùi Quang Diệu, Phạm Tiến, Phan Văn Đạt, Trịnh Quang Nghị,... chỉ huy dưới ngọn cờ của Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định.

Tượng đài Nghĩa sĩ Cần Giuộc được đặt cạnh trục đường Quốc lộ 50

8 thg 5, 2022

Sắc tím của rừng!

Tháng 4, những cơn mưa theo mây tưới mát núi rừng. Bảy Núi chuyển mình với màu xanh mướt mắt và xen lẫn sắc tím của những cây bằng lăng rừng trổ bông. Với người mộng mơ, mùa bằng lăng rừng bao giờ cũng ẩn chứa nét đẹp riêng, làm nên vẻ thơ mộng của Bảy Núi sau những ngày nắng cháy.

Vẻ đẹp của rừng

Bước vào mùa mưa, Bảy Núi dịu mát hơn, màu xanh dần bao phủ từ đồng bằng lên đỉnh non cao. Dọc theo những con đường nhựa chạy loanh quanh qua mấy cánh rừng, lòng người như lạc vào chốn hoang sơ, khi nghe tiếng ve kêu ra rả trên cành. Bất chợt, tôi nhận ra bức tranh thơ mộng của vùng Bảy Núi, với những đóa bằng lăng bát ngát trên triền dốc xa xa, đánh thức vẻ đẹp miên man của núi, của rừng.

Nghề chở khách sang sông

Phà Trà Ôn trên dòng sông Hậu (TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang) hàng ngày tấp nập người qua lại. Giờ cao điểm, hành khách chen chúc chờ phà cập bến. Để đáp ứng nhu cầu đi lại của hành khách, đội ngũ thuyền trưởng thay phiên nhau lái phà ngược xuôi, ngày lẫn đêm.

Phà Trà Ôn trực thuộc Xí nghiệp phà An Hòa (Công ty Cổ phần Phà An Giang). Tính chất công việc đặc thù, nên giờ giấc làm việc của người lái phà khá sít sao. Mỗi bến chia làm 3 kíp trực, mỗi kíp trực làm việc 12 tiếng liên tục; 3 kíp xoay vòng, thay phiên nhau trực 24/24 giờ, bất kể ngày lễ, Tết, ngày nghỉ... Cứ đúng ca trực là họ đi làm.

Ca làm việc ban ngày bắt đầu từ 6 giờ sáng, kết thúc lúc 18 giờ. Ca làm việc đêm bắt đầu từ 18 giờ, kết thúc vào 6 giờ sáng hôm sau. Tùy vào quy mô của từng bến, công ty phân công loại phà cụ thể để phục vụ hành khách. Bến phà Trà Ôn được bố trí 4 chiếc phà, tải trọng 30 tấn/chiếc, 1 chiếc tải trọng 60 tấn. Mỗi phà do 2 người phụ trách (1 thuyền trưởng và 1 máy trưởng).

2 thg 5, 2022

Nơi thành lập giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa

Tại huyện Đức Hòa, có một ngôi đình mà bên trong khuôn viên là bia ghi ơn anh hùng liệt sĩ và bia kỷ niệm thành lập lực lượng giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa. Hàng năm, ngoài lễ cúng Kỳ yên của đình làng, ngày 27/7 và 22/12, tại đình còn có mâm cúng tưởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ. Đó là đình Mỹ Hạnh thuộc ấp Tràm Lạc, xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Như bao ngôi đình khác, đình Mỹ Hạnh là nơi sinh hoạt cộng đồng, làng xã của người dân và vẫn mang những đặc điểm cơ bản của đình làng ở Nam bộ: Đối tượng thờ phụng là Thành Hoàng Bổn Cảnh, trước đình có bàn thờ ông Hổ,... Ngoài những đặc điểm đó, trong khuôn viên đình còn có bia ghi danh liệt sĩ và bia kỷ niệm nơi thành lập giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa.

Chú Mười - Hội trưởng đình Mỹ Hạnh, kể: “Khu vực này ngày xưa là rừng rậm nên đình được mấy chú, mấy bác làm cách mạng chọn là địa điểm tổ chức các cuộc họp, xuất quân. Đặc biệt, đình được chọn là nơi thành lập lực lượng giải phóng quân liên quận vì Đức Hòa vốn giáp TP.HCM”. Chú Mười nói rằng, tên ấp Tràm Lạc có nghĩa là khu vực rất dễ bị lạc trong rừng tràm. Tên ấp đã nói lên địa thế của vùng trong những năm kháng chiến.

Đình Mỹ Hạnh vừa được trùng tu vài năm trở lại đây từ nguồn kinh phí xã hội hóa

Nguyễn Văn Quá - Người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa 18 thôn vườn trầu

Mộ - miếu thờ Nguyễn Văn Quá là nơi an táng và thờ cúng anh hùng Nguyễn Văn Quá, người đã cùng lãnh binh Phan Văn Hớn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa 18 thôn vườn trầu vào ngày 08/02/1885. Ông là người Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Ngày nay, miếu thờ ông được người dân và chính quyền địa phương chăm sóc. Câu chuyện về người anh hùng Nguyễn Văn Quá vẫn được lưu truyền tới tận hôm nay.

Từ thầy dạy võ đến phó lãnh binh

Nguyễn Văn Quá là anh hùng thời chống thực dân Pháp. Ông sinh năm 1831, ở làng Mỹ Hạnh (nay là xã Mỹ Hạnh Bắc, huyện Đức Hòa), vốn là người giỏi võ, hiểu rộng, có lòng thương người nên được người dân trong vùng mến mộ. Ông thường xuyên mở lớp dạy võ cho người dân nên được gọi là thầy võ Quá.

1 thg 5, 2022

Độc đáo làng Việt: Làng hoa phồn thịnh giữa miền Tây

Văn hóa Việt được xây đắp, vun bồi từ thành tố quan trọng, đó là làng Việt.

Thời bình, hồn cốt của làng Việt không ngừng được củng cố và phát huy. Cùng với đà phát triển của đất nước, sự thay da đổi thịt của nhiều làng Việt đã giúp sinh kế của bao gia đình ngày càng đi lên, ổn định.

Hình thành từ cuối thế kỷ 19, làng hoa Sa Đéc (Đồng Tháp) nép mình thơ mộng bên dòng sông Tiền, trăm hoa bốn mùa đua nở. Trải qua bao thế hệ vun trồng, cư dân nơi đây đang có cuộc sống sung túc.

“Bốn mùa xuân” ấm no

Bà Nguyễn Thị Ngọc, Trưởng phòng Kinh tế TP.Sa Đéc (Đồng Tháp), cho biết tính đến tháng 4.2022, làng hoa Sa Đéc có diện tích hơn 783 ha, đạt 103% kế hoạch phát triển của năm 2022. Nếu như ban đầu nghề trồng hoa chỉ tập trung ở P.Tân Quy Đông thì nay đã phát triển ra P.An Hòa, P.3 và 2 xã Tân Khánh Đông, Tân Quy Tây với hơn 2.300 hộ dân theo nghề.

Một vườn hoa tại Sa Đéc đầu tư phát triển du lịch. TRẦN NGỌC

Một trời xứ mắm An Giang


Vùng "túi cá" đầu nguồn thời cá ăn không hết, người ta phải muối để dành mà ra khô, ra mắm. Rồi phải chiều theo khẩu vị người dùng mà thành đặc sản trứ danh.

Vùng đất An Giang một thời "cá ăn không hết" ấy, giờ thì người ta vẫn tự tin rằng "mắm ăn không hết".

30 thg 4, 2022

Lễ cưới cổ truyền của người Khmer: Khi chú rễ hóa thân là "nhà vua"

Về Sóc Trăng trong tháng Buos, tháng Phol Kun (trong khoảng tháng giêng đến tháng 3 âm lịch) nếu dành thời gian lãng du trong những phum, sóc Khmer, ta như lạc vào không gian cổ tích với rộn ràng tiếng trống săm-bô, tiếng đàn khươm...với những chú rể, cô dâu trông như những hoàng tử, công chúa vừa bước ra từ cổ tích.

Ảnh: Cao Thanh Long

Cưới cổ truyền của người Khmer: Lễ cắt hoa cau và những con số thiêng

Trong lễ cưới cổ truyền của người Khmer ở Sóc Trăng, nghi lễ cắt hoa cau là một lễ thức trang nghiêm và không thể thiếu. 

Cha, mẹ cùng anh, chị mở đầu "Lễ buộc tay" cho đôi trai gái. Ảnh: Cao Long