Từ gần chục năm nay, xóm bún cá Châu Đốc nằm trên đường Dương Bá Trạc, quận 8 đã trở nên quen thuộc với những ai vốn nghiện món ăn đặc sản xứ An Giang.
20 thg 12, 2017
Bún cá Châu Đốc đúng vị giữa Sài Gòn
Ba món cá có tiếng ở Buôn Mê Thuột
Buôn Mê Thuột không chỉ hút hồn du khách bởi thiên nhiên hoang sơ mà còn những món ăn tưởng chừng là đặc sản của vùng khác.
Du khách đến Buôn Mê Thuột (Đắk Lắk) có thể thưởng thức 3 món ăn được chế biến từ các loại cá dưới đây.
Bánh canh cá dầm
Không phải xứ biển nhưng món bánh canh cá dầm vẫn nổi tiếng ở Buôn Mê Thuột mà bạn không nên bỏ qua. Sức hút của món ăn nằm ở vị nước dùng ngọt, chua cay và những miếng cá thu chắc thịt, thơm nức.
Du khách đến Buôn Mê Thuột (Đắk Lắk) có thể thưởng thức 3 món ăn được chế biến từ các loại cá dưới đây.
Bánh canh cá dầm
Không phải xứ biển nhưng món bánh canh cá dầm vẫn nổi tiếng ở Buôn Mê Thuột mà bạn không nên bỏ qua. Sức hút của món ăn nằm ở vị nước dùng ngọt, chua cay và những miếng cá thu chắc thịt, thơm nức.
Tô bánh canh cá dầm có giá từ 15.000 đồng. Ảnh: yeutre.
5 món lạ miệng ở miền sông nước Hậu Giang
Cháo lòng Cái Tắc, đọt choại hay sỏi mầm là những món ăn sẽ để lại ấn tượng trong hành trình khám phá ẩm thực miền Tây của bạn.
Cháo lòng Cái Tắc
Không chỉ nổi tiếng trong tỉnh, “tiếng thơm” của cháo lòng Cái Tắc còn được truyền khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cháo được nấu nhừ và lỏng. Vì người bán thường dùng vá để khuấy, huyết bên trong cũng tan ra thành từng miếng nhỏ, màu huyết quyện với cháo tạo nên màu trắng ngà.
Cái Tắc là thị trấn thuộc huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Nhiều quán cháo nằm sát nhau. Dù cách nấu hay gia giảm gia vị có khá nhau, hương vị của món ăn vẫn sẽ khiến bạn thích thú. Ảnh: dansanthonque.
Không chỉ nổi tiếng trong tỉnh, “tiếng thơm” của cháo lòng Cái Tắc còn được truyền khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Cháo được nấu nhừ và lỏng. Vì người bán thường dùng vá để khuấy, huyết bên trong cũng tan ra thành từng miếng nhỏ, màu huyết quyện với cháo tạo nên màu trắng ngà.
Cái Tắc là thị trấn thuộc huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Nhiều quán cháo nằm sát nhau. Dù cách nấu hay gia giảm gia vị có khá nhau, hương vị của món ăn vẫn sẽ khiến bạn thích thú. Ảnh: dansanthonque.
Về Phja Thắp học làm hương
Những người Nùng sinh sống bao đời nay ở làng Phja Thắp (xã Quốc Dân, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng) không nhớ nghề làm hương truyền thống của quê mình có từ bao giờ. Họ bền bỉ kế tục từ đời cha ông, giữ nghề và tiếp tục truyền dạy con cháu.
Kết tinh của thiên nhiên
Làng Phja Thắp nằm trong thung lũng rộng lớn, một bên là núi cao, một bên là đường lớn để đi lên biên giới Cao Bằng. Vừa tỉ mỉ chuốt từng cây hương, anh Hoàng Văn Lập, trưởng thôn Phja Thắp vừa nhận xét, “để làm ra một thẻ hương nhiều công đoạn lắm”. Đầu tiên là chuẩn bị bột làm hương, mọi người phải lên rừng hái lá bơ hắt, mọc tự nhiên bên những vách đá về, phơi khô rồi tán bột mịn như bột gạo. Hoàn toàn không dùng hóa chất, lá bơ hắt đóng vai trò như chất keo kết dính tự nhiên giữa các loại bột với que hương. Sau đó bột trộn thêm vỏ cây nghiến đỏ, mùn cưa, cây thung, cây mạy khảo… để tạo mùi.
Làng Phja Thắp nằm trong thung lũng rộng lớn, một bên là núi cao, một bên là đường lớn để đi lên biên giới Cao Bằng. Vừa tỉ mỉ chuốt từng cây hương, anh Hoàng Văn Lập, trưởng thôn Phja Thắp vừa nhận xét, “để làm ra một thẻ hương nhiều công đoạn lắm”. Đầu tiên là chuẩn bị bột làm hương, mọi người phải lên rừng hái lá bơ hắt, mọc tự nhiên bên những vách đá về, phơi khô rồi tán bột mịn như bột gạo. Hoàn toàn không dùng hóa chất, lá bơ hắt đóng vai trò như chất keo kết dính tự nhiên giữa các loại bột với que hương. Sau đó bột trộn thêm vỏ cây nghiến đỏ, mùn cưa, cây thung, cây mạy khảo… để tạo mùi.
Phụ nữ làng Phja Thắp làm hương . Ảnh: Bảo Lâm
Trống cái da trâu, báu vật thiêng của người Ê Đê
Cùng với nhà dài, ghế k’pan và dàn chiêng đồng, trống cái da trâu (trống h’gơr) là những di sản quý báu, biểu tượng của các giá trị văn hóa tiêu biểu của người Ê Đê.
Độc đáo chiếc trống da trâu
Trống h’gơr là loại trống được chế tác, diễn tấu hết sức độc đáo của người Ê Đê. Trống được khoét từ thân cây gỗ nguyên khối (thường là gỗ sao, lim) với đường kính từ 70 cm đến 1,5 m. Sau đó, nghệ nhân phải dùng lửa hơ đốt bên trong lòng trống để tạo thành tang trống mà phần giữa thân tang trống phình to nhất, 2 đầu nhỏ lại, trong đó một đầu lớn hơn.
Mặt trống được bưng bằng da trâu, mà phải nguyên da của cả con và còn nguyên lông (sau khi hoàn thành trống mới cạo lông trên 2 mặt trống) và dùng hệ thống dây néo để bưng vào tang trống. Một phía đầu tang trống bao giờ cũng to hơn, sử dụng chủ yếu khi diễn tấu - mặt cái, bưng bằng da trâu cái. Đầu phía còn lại nhỏ hơn - là mặt đực, bưng bằng da trâu đực. Da trâu được thuộc thủ công bằng muối, nước vôi, nước lá cây và vỏ cây rừng ngâm, sau đó phơi nắng. Da trâu được cố định giữ trên tang trống bằng hệ thống đinh làm từ gốc tre gi vót nhọn. Da trâu phủ mỗi mặt trống xuống một nửa tang trống, giữa chừa 2 - 3cm đúng vào vị trí đã được đục lỗ tạo móc sắt để treo.
Độc đáo chiếc trống da trâu
Trống h’gơr là loại trống được chế tác, diễn tấu hết sức độc đáo của người Ê Đê. Trống được khoét từ thân cây gỗ nguyên khối (thường là gỗ sao, lim) với đường kính từ 70 cm đến 1,5 m. Sau đó, nghệ nhân phải dùng lửa hơ đốt bên trong lòng trống để tạo thành tang trống mà phần giữa thân tang trống phình to nhất, 2 đầu nhỏ lại, trong đó một đầu lớn hơn.
Mặt trống được bưng bằng da trâu, mà phải nguyên da của cả con và còn nguyên lông (sau khi hoàn thành trống mới cạo lông trên 2 mặt trống) và dùng hệ thống dây néo để bưng vào tang trống. Một phía đầu tang trống bao giờ cũng to hơn, sử dụng chủ yếu khi diễn tấu - mặt cái, bưng bằng da trâu cái. Đầu phía còn lại nhỏ hơn - là mặt đực, bưng bằng da trâu đực. Da trâu được thuộc thủ công bằng muối, nước vôi, nước lá cây và vỏ cây rừng ngâm, sau đó phơi nắng. Da trâu được cố định giữ trên tang trống bằng hệ thống đinh làm từ gốc tre gi vót nhọn. Da trâu phủ mỗi mặt trống xuống một nửa tang trống, giữa chừa 2 - 3cm đúng vào vị trí đã được đục lỗ tạo móc sắt để treo.
Trống h’gơr được đặt trang trọng trên ghế k’pan trong nhà dài của người Ê Đê tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội).
Nón thúng quai thao
Nói đến trang phục đặc sắc, tiêu biểu của dân tộc Việt Nam thời hiện đại không thể không nhắc đến chiếc Áo dài truyền thống. Thế nhưng ít ai biết rằng, trong suốt lịch sử mấy trăm năm về trước, trang phục “tôn vinh” và làm nên nét duyên của các "quý bà, quý cô" nước Việt, lại chính là những tấm áo mớ ba, mớ bảy cùng chiếc nón thúng quai thao.
Nàng thơ của các “tao nhân, mặc khách”
Chiếc nón quai thao đi kèm với bộ áo mớ ba, mớ bảy, mà màu hoa đào, màu hoa hiên, màu xanh thiên lý hay màu vàng chanh của những lớp áo trong được phủ ra ngoài bằng chiếc áo the đen mỏng dính, cài bên cạnh sườn bằng chiếc cúc đồng nhỏ xíu từ nách lên cổ thì lật chéo sang bên, hở he hé những màu sắc bên trong. Cái lối ăn mặc nửa kín nửa hở này khiến cho các “tao nhân, mặc khách” (người giỏi sáng tác hoặc thưởng thức văn chương) nam nhi thật sự xao xuyến bồi hồi, nhưng trang phục độc đáo ấy vẫn đượm vẻ nền nã, kín đáo, mang đậm sắc thái của người phụ nữ Việt Nam. Phía dưới, các quý bà, quý cô thường mặc váy lưỡi trai bảy bức bằng lĩnh hay sồi đen buông chấm gót, làm nền cho những dải thắt lưng cánh sen hay mỡ gà thắt nút so le rủ xuống, đong đưa mỗi khi cơn gió thoảng qua.
Nàng thơ của các “tao nhân, mặc khách”
Chiếc nón quai thao đi kèm với bộ áo mớ ba, mớ bảy, mà màu hoa đào, màu hoa hiên, màu xanh thiên lý hay màu vàng chanh của những lớp áo trong được phủ ra ngoài bằng chiếc áo the đen mỏng dính, cài bên cạnh sườn bằng chiếc cúc đồng nhỏ xíu từ nách lên cổ thì lật chéo sang bên, hở he hé những màu sắc bên trong. Cái lối ăn mặc nửa kín nửa hở này khiến cho các “tao nhân, mặc khách” (người giỏi sáng tác hoặc thưởng thức văn chương) nam nhi thật sự xao xuyến bồi hồi, nhưng trang phục độc đáo ấy vẫn đượm vẻ nền nã, kín đáo, mang đậm sắc thái của người phụ nữ Việt Nam. Phía dưới, các quý bà, quý cô thường mặc váy lưỡi trai bảy bức bằng lĩnh hay sồi đen buông chấm gót, làm nền cho những dải thắt lưng cánh sen hay mỡ gà thắt nút so le rủ xuống, đong đưa mỗi khi cơn gió thoảng qua.
Phụ nữ Việt làm duyên bên nón ba tầm.
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)





