30 thg 6, 2025

Giáo dân ‘gùi đá’ dựng nhà thờ giữa đại ngàn Tây Nguyên

Hàng nghìn giáo dân ở huyện Đam Rông (tỉnh Lâm Đồng) đã góp sức gùi từng viên đá từ sông Krông Nô, suối Đạ Tông, suối Rô Men đưa về đục đẽo, chẻ ra để dựng nên nhà thờ đá Đạ Tông, một công trình tôn giáo độc đáo giữa đại ngàn Tây Nguyên.


Nhà thờ đá Đạ Tông nằm giữa xã Đạ Tông, huyện Đam Rông, là nơi hành lễ chính cho hơn 10.000 giáo dân thuộc các xã Đạ Tông, Đạ M’rông, Đạ Long, khu vực có đông đồng bào dân tộc thiểu số như M’nông, K’Ho, Cill theo đạo Công giáo.

Mỗi sáng cuối tuần, từng dòng người lặng lẽ đi bộ từ sớm tinh mơ, mặc trang phục truyền thống, len lỏi theo lối mòn rừng núi để về làm lễ.

2.500 tấn đá nguyên khối tạc hành lang tượng La Hán dài nhất châu Á

Hành lang 500 pho tượng La Hán bằng đá xanh ở chùa Bái Đính được xác lập kỷ lục là hành lang La Hán dài nhất châu Á.

Hành lang tả và hữu từ cổng Tam Quan đi vào chùa Bái Đính được đặt 500 pho tượng La Hán bằng đá xanh, mỗi tượng cao khoảng 2,5 m, nặng khoảng 4 tấn. Hành lang còn được gọi là La Hán đường và có 2 dãy, mỗi dãy 117 gian, dài 1.700 m, mỗi hành lang đặt 250 pho tượng La Hán được đánh số chẵn một bên, số lẻ một bên.

Với hành lang này, Bái Đính được công nhận là ngôi chùa có nhiều tượng La Hán bằng đá nhất Việt Nam. Nơi đây cũng được xác lập kỷ lục là hành lang La Hán dài nhất châu Á.

Hành lang La Hán có 2 dãy, mỗi dãy 117 gian, dài 1.700 m, mỗi hành lang đặt 250 pho tượng

29 thg 6, 2025

Cao nguyên đá Đồng Văn, mỗi phiến đá một bản tình ca

Rong ruổi trên những con đường đèo quanh co uốn lượn, hay đi ‘lạc’ trong những bản làng của người Mông, người Lô Lô… đều thấy đá tai mèo ở đó, mỗi phiến đá ở cao nguyên đá Đồng Văn như một bản tình ca êm dịu.

Mùa xuân ở Lao Xa - Ảnh: NAM TRẦN

Dù xuân, hạ, thu, đông… mùa nào cũng vậy, Hà Giang luôn ấm áp, chân tình. Không chỉ có cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ khiến bất cứ ai lần đầu đến Hà Giang cũng phải ngỡ ngàng, nơi đây còn có những nét văn hóa lâu đời, đậm đà làm say lòng du khách.

Gác chuông cổ, nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của một huyện ở Thanh Hóa

Gác chuông cổ ở chùa Trần là nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Đã một thời gian dài trôi qua, đến nay, gác chuông và tấm bia cổ vẫn còn đó.

Chùa Trần thuộc làng Kim Liên, xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.

Theo nội dung ghi trên tấm bia đá dựng ở gác chuông, chùa được dựng vào năm Tân Sửu niên hiệu Thành Thái thứ 13 (1902), có tên chữ là Phúc Linh Tự.

Sở dĩ chùa Phúc Linh Tự có tên là chùa Trần vì ngôi chùa được dựng ở làng Trần Thôn và xây từ thời Trần.

Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, chùa Trần được trùng tu nhiều lần. Bên cạnh việc là một ngôi chùa quy mô bề thế thì chùa còn có giá trị về nhiều phương diện. Tại gác chuông chùa Trần từng diễn ra một sự kiện lịch sử trọng đại đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc huyện Hà Trung thời kỳ 1930-1945.

Cổng vào chùa Trần

Ngôi chùa sở hữu những di sản cổ nhất, lớn nhất, độc đáo nhất Việt Nam và thế giới

Chùa Bổ Đà (Việt Yên, Bắc Giang) không chỉ có kiến trúc độc đáo và khác biệt, có vườn tháp lớn nhất Việt Nam. Điểm nổi bật nhất là ngôi cổ tự đã được công nhận Di tích Quốc gia đặc biệt này còn lưu giữ bộ Mộc bản kinh Phật cổ nhất thế giới.

Nằm uy nghi trên dãy Bổ Đà sơn thuộc xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, Chùa Bổ Đà không chỉ là một trong những trung tâm Phật giáo lớn của Việt Nam mà còn là một quần thể di tích mang giá trị lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật vô cùng quý giá, được vinh danh là Di tích quốc gia đặc biệt từ năm 2016.

Đặc biệt, ngôi cổ tự này còn ẩn chứa những báu vật vô song, trong đó nổi bật nhất là bộ Mộc bản kinh Phật cổ nhất thế giới và vườn tháp khổng lồ, độc đáo bậc nhất Việt Nam.

Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Bổ Đà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 2499 ngày 22/12/2016. Hiện chùa Bổ Đà còn nhiều tài liệu, hiện vật, cổ vật quý có giá trị lớn về mặt văn hóa, lịch sử, kiến trúc và mỹ thuật.

Sắc sen cổ ở toà thành đá hơn 600 tuổi

Thành nhà Hồ là một công trình kiến trúc độc đáo, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Trải qua hơn 600 năm, toà thành đá vẫn giữ nguyên nét đẹp độc nhất vô nhị. Đặc biệt, trong nội thành nhà Hồ còn có 4 đầm sen cổ - nơi mà bất kỳ ai khi đến thăm cũng phải dừng chân để tận hưởng vẻ đẹp thanh tao này.

Cứ mỗi độ hè về, khoảng từ tháng 6 đến tháng 9 hằng năm, hoa sen ở Thành nhà Hồ lại tỏa hương thơm ngát.

28 thg 6, 2025

Ngôi chùa Khmer xứ biển Bạc Liêu, trăm năm quay mặt về hướng Đông

Chùa Xiêm Cán ở tỉnh Bạc Liêu được xây dựng cách đây hơn 100 năm. Tất cả các hạng mục trong chùa đều được xây dựng quay về hướng Đông.

Nằm cách trung tâm TP Bạc Liêu (tỉnh Bạc Liêu) hơn 10 km và cách bờ biển khoảng 2 km, chùa Xiêm Cán là một trong những ngôi chùa Khmer lớn trong hệ thống chùa Khmer ở Nam Bộ.

Hơn một thế kỷ hình thành và phát triển, chùa Xiêm Cán là trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh, văn hóa nghệ thuật của người Khmer

Độc đáo bộ Lịch Rọi của người Mường

Lịch Rọi – loại lịch cổ xưa của người Mường, là một di sản văn hóa đặc sắc, phản ánh tri thức và thế giới quan gắn bó mật thiết với tự nhiên, mùa màng và tín ngưỡng dân gian.

Người Mường ở Hòa Bình tự hào giới thiệu bộ Lịch Rọi truyền thống.

Lịch Rọi, còn gọi là lịch tre hay lịch Mường thường được làm từ tre già hoặc nứa thẳng, dài khoảng 40–60 cm. Mỗi bộ lịch gồm 12 thẻ tương ứng với 12 tháng, trên đó khắc các vạch và ký hiệu như hình tròn, dấu gạch chéo, hình tam giác… Những dấu hiệu này cho biết ngày tốt – xấu, ngày đại cát – tiểu cát, ngày kiêng kỵ hoặc phù hợp cho từng việc cụ thể như dựng nhà, cưới xin, lên rừng, xuống suối, gieo trồng, làm lễ…

Trạng vật đất Mộ Trạch và lời thách đấu thời vua Lê

Làng tiến sĩ Mộ Trạch (Bình Giang, Hải Dương) là nơi sản sinh 5 vị trạng nổi tiếng, gắn liền với nhiều giai thoại dân gian, trong đó có trạng vật Vũ Phong.

Nhà thờ Lệ trạch đường, chi 5 họ Vũ làng Mộ Trạch

Trong lịch sử, có những người tuy không đỗ danh hiệu cao nhất Trạng nguyên mà chỉ đỗ tiến sĩ hoặc không xuất phát từ con đường khoa cử nhưng vì khâm phục tài năng, đức độ của họ mà trong dân gian vẫn phong là trạng như: trạng toán, trạng chằm, trạng ăn, trạng vật, trạng cờ, trạng chữ, trạng cầu…

Thật tự hào ở làng tiến sĩ Mộ Trạch (Bình Giang) có tới 5 vị trạng được lưu truyền nhiều giai thoại dân gian: trạng toán Vũ Hữu, trạng cờ Vũ Huyên, trạng chạy Vũ Cương Trực, trạng ăn Lê Nại và trạng vật Vũ Phong. Đặc biệt, Vũ Phong được vua phong là trạng và ban chức quan sau một keo vật lịch sử.

Theo sách Tộc phả họ Vũ (Võ) thế kỷ IX - XIX và các nguồn tư liệu khác, Vũ Phong tên hiệu là Tồn Trai, là con trai thứ 5 của cụ Vũ Bá Khiêm, là em ruột của quan Thượng Thư Hoàng Giáp Vũ Hữu (1437 - 1530). Vợ ông là Nguyễn thị Nhi, hiệu là Gia Thận phu nhân sinh được 5 người con trai, 1 người con gái, trong đó con trai trưởng là Vũ Giản đỗ Hương cống, làm đến chức Viên ngoại lang và con trai thứ hai là Vũ Soạn làm đến chức Huyện thừa.

Vũ Phong là người tướng ngũ đoản (chân tay ngắn) nhưng có sức khỏe và bản lĩnh cao cường, chăm học, có tài vật giỏi, ai đấu với ông cũng bị thua. Ông còn có những động tác bất ngờ nhanh như cắt và chân tay mềm dẻo, uyển chuyển như mèo. Theo sách “Hải Dương phong vật chí”, người dạy võ cho Phong chính là anh của ông - Hoàng giáp Vũ Hữu.

Trong Công dư tiệp ký (quyển 1) của Vũ Phương Đề có chép giai thoại ông thách đấu với lực sĩ của vua đầy mưu mẹo: Đời Lê Thánh Tông, một hôm, nhân ra học ở kinh đô, ông được chứng kiến cuộc tuần du của nhà vua. Bấy giờ có viên Đô Lực Sĩ, vác chiếc chùy đồng đứng hầu, mặt có vẻ dương dương tự đắc. Thấy thế, ông quay sang hỏi người bên cạnh: Này bác, người kia là ai, phỏng có tài cán gì mà hắn lại dám nghênh nghênh cái mặt lên như thế!

Người ấy bèn đáp: Đó là một võ sĩ, rất sở trường về môn đánh vật, hiện thời chưa có ai địch nổi cả. Đấy cũng là một cách tiến thân, bác biết không.

Nghe xong, ông hỏi: Vậy, tôi muốn thử tài ngay với hắn liệu có được không ? Người ấy thoạt nghe đã vội vã can rằng: Hắn cao lớn thế kia mà bác thì bé loắt choắt như thế này, sợ ra đó chỉ làm trò cười cho thiên hạ thôi.

Ông cười đáp: Xin bác chớ lo ngại gì. Tôi đây bản lĩnh cao cường, chưa ai địch nổi. Hắn chẳng qua chưa gặp đúng địch thủ nên mới nổi danh. Bác coi, tôi sẽ thắng hắn một cách dễ dàng cho mà xem.

Nói rồi, ông viết tờ tấu, xin nhà Vua cho được so tài với viên Đô Lực Sĩ. Vua xem tờ tấu, phán rằng:

Ta phải tuyển chọn trong muôn ngàn người mới được một lực sĩ, thử hỏi còn có ai hơn. Tên kia tài nghệ ra sao mà dám to gan đến thế.

Ban thờ dòng họ chi V, Họ Vũ làng Mộ Trạch

Nói vậy nhưng nhà Vua cũng chuẩn phê và định ngày giờ cho hai bên so tài để nhà Vua thân hành đến coi. Đến ngày thách đấu, khi lên sới vật, ông giấu nắm cát trong tay, bất ngờ tung ra khiến viên lực sĩ không mở được mắt. Ông tức thì dùng miếng xuyên cánh khuỷu quật hắn xuống đất. Nhà vua rất đỗi ngạc nhiên một con người nhỏ thấp như vậy lại có thể quật ngã chàng lực sĩ khổng lồ trong nháy mắt. Vua bèn phong cho ông là trạng vật và ban cho chức Cẩm y vệ úy chỉ huy sứ.

Thế là qua một cuộc tỉ thí hiếm có, Vũ Phong đường hoàng tiếp bước anh là Vũ Hữu vào làm quan triều Lê. Theo sách “Hải Dương phong vật chí”, ông có tiếng là chính trực, tháo vát, được Vua tin dùng, sau làm đến chức Đình úy.

Có lần ông được sung vào sứ bộ sang nhà Minh biểu diễn tài đô vật. Ông đã thắng các tay đô vật nổi tiếng khiến vua Minh Hiến Tông phải khen ngợi, gọi ông là “Lý Tôn Hiến An Nam”, ý sánh ông với danh tướng họ Lý đời Đường Hy Tông, cũng vóc người nhỏ bé nhưng giỏi võ và sức mạnh phi thường, có công dẹp yên loạn Hoàng Sào. Hoàng giáp Lê Quang Bí có thơ vịnh ca ngợi ông:

Ngũ đoản tằng xưng tướng mạo kỳ
Tang bồng hồ thỉ hảo nam nhi
Nhất môn bá trọng quang tiền nghiệp
Thiên tải minh lương kết chủ tri
Ứng biến đại tài thi hữu chính
Sinh Bình Lệnh dự bá vu thì
Tử tôn vinh thịnh sơ phi ngẫu
Chủng đức cao đào thị ngã sư

Dịch thơ:

Tướng xem ngũ đoản thật phi thường
Hồ thỉ làm trai chí bốn phương
Nếp cũ thêm tươi hàng bá trọng
Nghìn xưa được tặng chúa minh lương
Khen tay chính trị tài thông biến
Giữ mực công minh tiếng chẳng thường
Con cháu vinh hoa âu cũng bởi,
Ai trồng cây đức để làm gương

(Bản dịch từ Nhân vật lịch sử Việt Nam)

Ông giỗ ngày 11/1 nhưng không rõ năm mất, táng ở xứ Mả Miếu. Qua thời gian, hậu duệ đã xây dựng và tôn tạo ngôi mộ của ông khá to đẹp.

Ông được tôn là thủy tổ của chi thứ V, họ Vũ ở làng Mộ Trạch. Để tưởng nhớ công lao của ông, hậu duệ đã lập nhà thờ mang tên Lệ trạch đường, tọa lạc gần cổng phía Nam của làng. Trải qua thời gian, nhà thờ bị hư hại và đã được con cháu trùng tu, xây dựng lại trong những năm gần đây.

TÂM HÀ

Chiêm ngưỡng chính điện dát vàng ở khu di tích lịch sử Lam Kinh

Nội thất trong khu chính điện Lam Kinh ở huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) được dát vàng với số lượng lớn, nơi đây hằng năm đón lượng khách lớn về thăm, chiêm bái.

Theo sử sách, Lam Kinh vốn là đất Lam Sơn, quê hương của Lê Lợi, người có công chiêu mộ hiền tài, quy tụ nhân dân đánh đuổi giặc Minh xâm lược (1418-1427).

Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (Lê Thái Tổ) lập nên vương triều Hậu Lê, đóng đô ở Thăng Long và lấy niên hiệu Thuận Thiên, đặt tên nước là Đại Việt.

Năm 1430, Lê Thái Tổ đổi tên vùng đất Lam Sơn thành Lam Kinh. Kể từ đó, các kiến trúc điện, miếu... cũng bắt đầu được xây dựng tại đây, gắn với hai chức năng chính: vừa là điểm nghỉ chân của các vua Lê khi về cúng bái tổ tiên; vừa là nơi ở của quan lại và quân lính thường trực trông coi Lam Kinh và khu tập trung lăng mộ của tổ tiên, các vị vua, hoàng thái hậu nhà Lê và một số quan lại trong hoàng tộc.

Chính điện ở khu di tích lịch sử Lam Kinh