31 thg 5, 2017

Về Bến Tre làm kẹo dừa

Ai đã từng rong ruổi qua những kênh rạch, những thôn ấp bưng biền ở Đồng bằng sông Cửu Long đều không lạ gì những rặng dừa xanh chạy xa tít tắp. Điều đặc biệt, dừa hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày nhưng chỉ ở Bến Tre, dừa mới được chế biến thành kẹo và trở thành đặc sản nổi tiếng của vùng. 

Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo 


Tương truyền, kẹo dừa Bến Tre ra đời từ khoảng những năm 30 của thế kỷ XX, được làm bởi những người phụ nữ khéo tay đất Mỏ Cày. Điều này đã được dân gian lưu truyền qua câu ca: “Bến Tre dừa ngọt sông dài/ nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh/ Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo/ gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan”.

Nguyên liệu làm kẹo dừa đều là nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương, trong đó không thể thiếu nước cốt dừa, mạch nha, đường. Mạch nha được làm từ thóc nếp loại ngon, hạtto, nở đều, đã có mầm hoặc mộng già. Mạch nha sau khi nấu lên màu vàng sậm, vị ngọt thanh, thơm ngon mùi nếp. nếm thử có vị ngọt thanh, đó là của gạo và mộng lúa chứ không ngọt đậm của đường. 

30 thg 5, 2017

Tết Đoan Ngọ và quan niệm tắm xả xui của dân Bình Định

Đến hẹn lại lên, cứ đến ngày mùng 5.5 âm lịch, người dân phố biển Quy Nhơn và các vùng biển khác của Bình Định lại ùn ùn kéo nhau ra biển.

Người già, người trẻ và cả những em bé nhỏ mới mấy tháng tuổi cũng được cha mẹ ẵm bồng ra biển với ước mong con mình được khoẻ mạnh và gặp nhiều may mắn.

Trưa 30.5, đúng giờ Ngọ (12 giờ trưa), hàng nghìn người dân địa phương lại đổ xô ra biển để... tắm. Theo quan niệm truyền thống của người dân nơi đây, tắm biển lúc giữa trưa ngày tết Đoan Ngọ sẽ rửa xả được hết mọi bệnh tật, xui xẻo trong một năm qua để lấy lại sức lực, may mắn cho một năm tới.

Hua Tát - cung đèo của gió

Đường vào Mộc Châu dốc núi liên tục khiến ta có cảm giác đâu đâu cũng là đèo, nhưng khi đến Hua Tát, đoạn rẽ ngã ba đường mới thấy thế nào là đèo núi thực sự. 


Quốc lộ 6 dẫn lối đến Sơn La, những con đường uốn lượn dưới ánh mặt trời dát vàng. Qua đèo Thung Khe, khung cảnh mỗi lúc một hùng vĩ. Đường đẹp nên xe chạy bon bon. Một chốc đến Mai Châu mùa em thơm nếp xôi, rồi một chốc đến Mộc Châu.

Kỳ thú Núi Cấm: Lên đỉnh mây mù ngắm... cua

Trên đỉnh Núi Cấm (Tịnh Biên - An Giang) có loài cua rất đặc biệt. Đây là tài nguyên du lịch đặc sắc của ngọn núi được mệnh danh là "Nóc nhà xanh" vùng ĐBSCL. 

Với độ cao trên 700m so với mặt nước biển, Núi Cấm (Tịnh Biên – An Giang) được biết đến như địa điểm “không thể bỏ qua” của khách du lịch. Bởi nơi đây không chỉ có nhiều công trình văn hóa mang dậm dấu ấn tâm linh của thời cha ông mở đất, mà còn được thiên nhiên hào phóng ban tặng nhiều tài nguyên cho nền du lịch sinh thái.

Đó không chỉ là những cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn tiếng lá non gọi gió, những hang động và nhất là hệ thống suối.

Suối ở Núi Cấm rất đa dạng, có khi chảy ngầm dưới các hốc đá, có khi nhẹ nhàng lan tỏa qua những tảng đá bên dưới hang động, có khi róc rách dưới cội rừng già... nhưng cũng có khi ầm ào thành suối.

Ngoài tên gọi đặc biệt như suối Thanh Long, suối Động Thủy Liêm..., suối ở Núi Cấm còn có nhiều đặc biệt khác, trong đó có điều đặc biệt hiếm nơi đâu có được: Là thủ phủ của loài cua.

Lên Cao Bằng ăn bánh cuốn canh

Cao Bằng có nhiều món ăn hấp dẫn người từ vùng khác đến. Đó là phở chua, phở vịt, phở thịt quay, bánh gai, kẹo lạc và phổ biến nhất, mà ai lên Cao Bằng cũng nhận được lời dặn: “Nhớ thử bánh cuốn Cao Bằng nhé”. 

Bánh cuốn canh theo kiểu trứng chần để trong bát nước dùng. Ảnh: P.V 

Tùy khẩu vị mỗi người. Nhưng thử để biết. Biết rồi sẽ nhớ.

Tu viện bỏ hoang đẹp như ở châu Âu giữa lòng Đà Lạt

Nhà nguyện dòng Franciscaines trên đường Hùng Vương đã bị bỏ hoang vài thập kỷ. Lớp bụi thời gian bao phủ trên những ô cửa kính vỡ vụn, hành lang u tối đầy cỏ dại. 

Không phải những con đường quanh co bên những rừng thông cao vút, không phải sắc màu rực rỡ của hàng nghìn loại hoa..., Đà Lạt quyến rũ tôi bởi lối kiến trúc tuyệt đẹp với những biệt thự, nhà thờ cổ kính. 

Nhà máy thủy điện đầu tiên của Việt Nam tại Đà Lạt

Ẩn mình giữa núi rừng xanh mướt, nhà máy thủy điện Ankroet hiện lên như một tòa lâu đài cổ kính thôi thúc bước chân khám phá của du khách. 

Theo cuốn Địa chí Đà Lạt, nhà máy thủy điện đầu tiên của Việt Nam được khởi công vào tháng 10/1942 và khánh thành vào năm 1945, chính thức phát điện năm 1946. 

Độc đáo nhà thờ họ Đỗ hơn 300 năm tuổi

Nhà thờ họ Đỗ là ngôi nhà thờ họ hiếm hoi được phép xây dựng theo kiến trúc như một đình làng. Trải qua thời gian, dòng họ Đỗ vẫn lưu giữ được gần như nguyên vẹn kiến trúc cùng tất cả các hoành phi, câu đối, các hương án, ban thờ, bộ kiệu, vật dụng tế lễ từ xưa. 

Đình thứ 2 của làng
Theo ông Đỗ Quốc Hiến hậu duệ thứ 15 của họ Đỗ, người trông nom nhà thờ cho biết: “Nhà thờ họ Đỗ được xây dựng để thờ cụ tổ dòng họ là Đỗ Thế Giai, làm quan thời Lê - Trịnh. Cụ là 1 trong số rất ít người được phong Vương khi sống, khi mất được phong Thần. Khi còn sống, cụ đã được triều đình phong Vương, gọi là Đỗ Đại Vương, đến khi qua đời được tôn làm Thần, gọi là Thượng đẳng phúc thần”. 

Cổng vào nhà thờ họ Đỗ với mái lợp ngói cổ và lối đi lát gạch cổ kính 

Độc đáo lễ Bốc Mó của người Thổ

Lễ Bốc Mó hàng năm là lễ tục đặc biệt quan trọng của người Thổ, cầu cho mưa thuận, gió hòa, nguồn nước Mó tuôn chảy không ngừng, để phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt và cho việc tưới tiêu của nông dân.

Theo thầy mo Trương Thanh Hải, xóm Phượng, xã Nghĩa Xuân, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, từ buổi khai sơn lập làng lập bản, trong tâm thức và tín ngưỡng của người Thổ, lễ Bốc Mó là lễ cúng đền khai thông mó nước. Để tổ chức lễ Bốc Mó, nhân dân chuẩn bị lễ vật chu đáo bao gồm: 1 cỗ xôi gà, bánh đầu chó, sừng trâu, bánh trôi, rượu cần…, đưa đến mó nước của làng (nhiều làng đồng bào thổ đã xây dựng Đền cúng Mó trang trọng linh thiêng), cắt cử người trông coi và thầy mo làm lễ cúng tế. 

Chuẩn bị lễ vật cho lễ cúng. 

28 thg 5, 2017

Tuồng cổ làng Thổ Hà

Không chỉ nổi tiếng bởi lối hát quan họ độc đáo, làng Thổ Hà (xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) là một trong số ít nơi còn giữ được nghệ thuật tuồng. Vào dịp hội làng (từ 20-22 tháng Giêng), các nhân vật tuồng còn là “điểm nhấn” trong nghi lễ rước với hơn hai mươi vai đóng thế được trang điểm khá cầu kỳ như: Tổng Cờ, Tổng Kiếm, Tam Đa, Tiên đồng, Ngọc nữ…

Không hề được đào tạo qua trường lớp, nhiều thế hệ người làng Thổ Hà cứ thế truyền nhau cách hóa trang, làn điệu, lối hát, diễn xuất để sân khấu tuồng dựng ở góc sân đình lại sáng đèn. Hàng loạt các vở diễn như "Triệu Đình Long cứu chúa"; "Đào Tam Xuân"; "Ngự đệ Kim Hùng", "Bá đao Diệm Thiên Hùng"… được diễn bởi những người yêu tuồng Thổ Hà để cả làng say sưa thưởng thức đến tận khuya.

Diễn tuồng đã khó, hóa trang nhân vật tuồng trong các tích cổ còn khó hơn. Diễn viên tuồng làng Thổ Hà ngoài khả năng ca xướng, vũ đạo, diễn xuất, còn phải biết vẽ mặt mình, khi thủ bất cứ vai nào. Nhờ những gương mặt được hoá trang, khán giả biết ngay tâm lý, tính cách, giai cấp xã hội của nhân vật khi vừa thấy diễn viên bước ra sân khấu. Diễn viên tuồng làng Thổ Hà thường hoá trang theo một số mẫu chung, vai “trung” mặt đỏ, râu dài; vai nịnh mặt rằn, râu ngắn; mặt trắng là người có diện mạo đẹp, tính cách trầm tĩnh; mặt đỏ là người trí dũng, chững chạc; mặt tròng xéo đen là tướng phản; hai bên thái dương có vết đỏ là người nóng nảy; mặt lưỡi cày là người đoản hậu, nhát gan...