28 thg 1, 2013

Sứ thần tài hoa

Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) là một danh thần thời Nguyễn Ánh mới khởi nghiệp đồ vương. Lăng mộ của ông hiện nằm trong một con hẻm nhỏ thuộc P.Trung Dũng, Biên Hòa, Đồng Nai.


Đem thân đền ơn nước

Lăng mộ nằm trong khu vực khu phố 3, tuy khuất trong khu dân cư, cạnh con hẻm nhỏ nhưng vẫn tạo được sự chú ý của người qua đường bởi quy mô hoành tráng, bề thế… Nghe nói trước năm 1975, hằng năm vào dịp lễ Thanh minh, con cháu hậu duệ của Trịnh Hoài Đức từ nhiều nơi quy tụ về cúng viếng rất trang trọng nhưng về sau không còn duy trì. 


Lăng mộ Trịnh Hoài Đức và phu nhân tại Biên Hòa, Đồng Nai - Ảnh: H.Đ.N 


Vị tiến sĩ một đời oan khuất

Trong một khu vườn tọa lạc tại ấp Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Kim, H.Châu Thành (Tiền Giang) có một ngôi mộ cổ nằm sát hàng rào lưới B40, cạnh con mương mới xẻ làm ranh giới “chống lấn chiếm”. Ngôi mộ không có mộ chí theo kiểu thông thường, chỉ có tấm bia đá hai mặt đều khắc chữ.

Theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường, đây là bài văn của cử nhân Phan Bộ Tam viết, nhằm minh oan cho người nằm dưới mộ là tiến sĩ Phan Hiển Đạo.

Dòng họ khoa bảng…

Phan Hiển Đạo sinh năm 1830, ở thôn Tân Đức Đông, H.Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Dưỡng Điềm, H.Châu Thành, Tiền Giang). Họ Phan là dòng họ khoa bảng ở chợ Thuộc Nhiêu. Cha ông là Phan Hiển Tần, đậu tam trường thời chúa Nguyễn Ánh còn ở Gia Định, ra làm quan đến chức Án sát. Đến đời Minh Mạng, không biết bị tội gì mà mất chức rồi về quê vợ ở thôn Vĩnh Kim Đông (nay là xã Vĩnh Kim) và chết trong sự ấm ức. Trên mộ bia còn ghi lại một câu đối “Quân ân bát thiên lý/Hương tình tam thập niên” (Ơn vua tám ngàn dặm/Tình quê 30 năm). 


Tấm bia ghi bài minh của cử nhân Phan Bộ Tam - Ảnh: H.P 


27 thg 1, 2013

Bí ẩn thành đá Tà Kơn

Tồn tại giữa mênh mông rừng già xã Vĩnh Sơn (H.Vĩnh Thạnh, Bình Định) hàng trăm năm qua nhưng thành đá Tà Kơn vẫn còn nhiều bí ẩn.


Truyền thuyết

Theo già làng Đinh Chương (ở làng Kon Blò, xã Vĩnh Sơn), Tà Kơn trong ngôn ngữ Ba Na có nghĩa là “chồng lên nhau”, ý muốn nói đến những hòn đá được xếp chồng lên nhau một cách rất lạ không ai hiểu được. Quá trình xây thành, giữ thành Tà Kơn được kể lại bằng hơ mon (hát kể sử thi Ba Na) đắm màu huyền thoại. Một truyền thuyết cho rằng Tà Kơn xưa kia vốn là nhà của 3 anh em, gồm 2 vị vua Trum, Trăm và nàng công chúa xinh đẹp, thông minh tên Bia Tơni.



Tường thành Tà Kơn là những phiến đá khổng lồ xếp chồng lên nhau thành hàng thẳng đứng - Ảnh: Hoàng Trọng 


Nhà thơ lưu lạc chốn quan trường

Theo sách Quốc triều hương khoa lục thì Huỳnh Mẫn Đạt người thôn Tân Hội, H.Tân Long (nay thuộc TP.HCM). Nhưng có tài liệu cho rằng ông quê ở Rạch Giá vì hiện nay ngôi mộ ông tọa lạc tại P.Vĩnh Bảo, TP.Rạch Giá, Kiên Giang. Trong khi đó thì nhà thờ dòng họ Huỳnh của ông lại ở xã Phú An, H.Cai Lậy, Tiền Giang.


Nhà thờ dòng họ Huỳnh

Xóm rạch Cây Cui nằm trên địa phận ấp 4, xã Phú An, H.Cai Lậy. Ở đây có dòng họ Huỳnh nổi danh khoa bảng, đồng thời cũng là một trong những dòng họ định cư sớm ở vùng này. Theo tài liệu lịch sử địa phương, có lẽ họ đến đây thời ông Nguyễn Văn Cối tái lập làng Phú Sơn, tức sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút 1785. Hiện ở Phú An vẫn còn địa danh rạch Ông Cối.

Nhưng họ Huỳnh hiện chỉ còn một số gia đình định cư. Trong số những người “bám trụ” lâu đời nhất có gia đình của nhà văn Minh Lộc, tức Huỳnh Công Trứ, nổi tiếng với tập truyện ngắn Giữ đất và tập truyện vừa Con đường sống đoạt giải nhất giải thưởng văn học Cửu Long hồi kháng chiến chống Pháp, năm 1951. Trên bàn thờ tổ tiên còn di ảnh của cụ Huỳnh Mẫn Thạch, một người bị chính quyền thực dân Pháp bắt đi lính sang Pháp hồi thế chiến thứ 1 (1914-1918), là cháu trực hệ của anh ruột nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt.


Gương trung hiếu của Phủ cậu Trần Xuân Hòa

Theo tài liệu lịch sử địa phương, hơn nửa thế kỷ trước, phế tích Tân Thành - Mỹ Quý (Tiền Giang), nơi quan quân nhà Nguyễn lập đồn chống Pháp, vẫn còn sót lại nền vựa kho lúa, nền vựa kho tiền, ao và hào thành, lũy tre bao bọc thành vẫn chưa bị phá hết.

Tháng 4.1861, sau khi chiếm thành Định Tường, quân viễn chinh Pháp chia lực lượng đóng đồn ở Kỳ Hôn, Rạch Gầm và Ba Rài. Triều đình Huế cử Biện lý bộ binh Đỗ Thúc Tịnh làm Tuần phủ Định Tường, Nguyễn Túc Trưng làm Khâm phái quân vụ, bổ sung thêm các quan Trương Minh Lượng, Nguyễn Nhã, Võ Duy Dương... Họ tập hợp nghĩa quân tại Tân Thành - Mỹ Quý (nay thuộc xã Nhị Quý, H.Cai Lậy, Tiền Giang), tích trữ lương thực khí giới, huấn luyện quân sĩ. Nhưng Đỗ Thúc Tịnh hy sinh khi trên đường nhận nhiệm vụ. Bấy giờ các nghĩa sĩ cử Cử nhân Trần Xuân Hòa làm Tri phủ thay thế, Thiên hộ Võ Duy Dương làm Chánh quản đạo, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân làm Phó quản đạo.

Đánh giặc, đem theo mẹ

Trần Xuân Hòa người gốc Quảng Trị, con quan Bố chánh Trần Tuyên, vào ngụ ở thôn Mỹ Thới, huyện Vĩnh Bình (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long). Xuất thân từ gia đình có truyền thống hiếu học, mẹ ông nuôi dạy hai con đều đỗ đạt: Năm Tân Sửu 1841, Trần Xuân Hòa thi đỗ Cử nhân. Năm Quý Mão 1843, người em là Trần Xuân Quang cũng thi đỗ Cử nhân, được bổ nhiệm làm quan Tri huyện. 


Đình Hữu Đạo, nơi lưu dấu huyền thoại về vị Lãnh binh Trần Từ - Ảnh: H.P 


Nhà tình báo triều Nguyễn

Trước năm 1975, Sài Gòn có đường Lê Văn Thạnh (nay đổi lại là Sư Thiện Chiếu), sau này ở Q.9, TP.HCM cũng có đường Nguyễn Văn Thạnh. 

Riêng tại TP.Mỹ Tho (Tiền Giang) hiện vẫn còn con đường mang tên Lê Văn Thạnh, nhưng cả Sài Gòn và Mỹ Tho đều ghi sai tên một nhân vật nhiều nỗi truân chuyên trong lịch sử buổi giao thời: Cử nhân Đặng Văn Thạnh.

Hoạt động bí mật

Theo bia mộ (tại xã Long Trung, H.Cai Lậy, Tiền Giang), Đặng Văn Thạnh tự là Long Phủ, sinh năm Canh Thìn (1830) tại thôn Trà Tân, H.Kiến Đăng. Phả hệ của gia đình ghi cha ông là Đặng Kiến Hưng, người gốc Quảng Ngãi, theo cha vào đây lập nghiệp từ cuối thế kỷ 18, là một trong những họ tiền hiền có công khai khẩn lập làng Trà Tân xưa.

Thời niên thiếu, Thạnh là học trò giỏi của thầy Đồ Giáo ở Giồng Vân (thôn Phú Long cùng huyện). Năm 26 tuổi, Đặng Văn Thạnh đến trường thi Gia Định ứng thí, đậu cử nhân khoa Quý Mão (1855). Sau đó ông ra kinh đô Huế thi hội, nhưng “học tài thi phận” ông bèn nộp đơn xin hậu bổ và được tuyển chọn làm chức Huấn đạo Kiến Hòa (Định Tường) trông nom việc giáo dục. Mấy năm sau, ông chuyển qua việc hành chính tại H.Phong Thạnh, tỉnh An Giang (nay là tỉnh Bạc Liêu). Đầu tiên ông giữ chức Kinh lịch, thăng Thông phán rồi thăng Tri huyện Phong Thạnh.