24 thg 1, 2013

Bia ký Bảo Định hà và thượng phương bảo kiếm

Nằm sát chợ Thang Trông thuộc ấp Phú Khương A, xã Phú Kiết, H.Chợ Gạo (Tiền Giang) có một tấm bia cổ cao chừng 90 cm, đặt bên trong thủ chủ cũ kỹ, mái lợp bằng tôn. Bên cạnh là những tấm ngói xưa còn chất đống.

Hằng ngày người qua lại mua bán nhộn nhịp, nhưng ít ai biết được đó là tấm bia ghi dấu việc đào kênh từ hơn 2 thế kỷ trước.

Lịch sử và bia ký

Vào năm 1705, quân Xiêm từ Chân Lạp theo sông Vàm Cỏ và sông Tiền tấn công nước ta. Chúa Nguyễn sai Chính thống Nguyễn Cửu Vân đem quân đắp lũy tại giồng Kiến Định để ngăn giặc. Để có nước sinh hoạt và đường thủy cho chiến thuyền hoạt động, Nguyễn Cửu Vân đã cho đào kênh Vũng Gù nối liền vàm rạch Thị Cai (Cai vệ Phạm Hoằng Lộc) và ngọn rạch Mỹ Tho tại Hóc Đùn.


Nem Bùi, đặc sản miền Kinh Bắc

Nói đến Kinh Bắc, ngoài quan họ, bánh phu thê, bánh tẻ, ít người biết ở mảnh đất “Em ơi buồn làm chi, anh đưa em về bên kia bờ sông Đuống” còn một đặc sản dân dã rất ngon và độc đáo: nem Bùi.


Phụ nữ trở thành lao động chính trong các khâu làm nem

Cuối tuần, chúng tôi về thăm vùng Kinh Bắc cổ kính và quyết định lang thang một ngày ở mảnh đất làng Bùi để hiểu rõ ngọn nguồn của nó. Làng Bùi nằm bên bờ sông Đuống thơ mộng dần hiện ra trước mắt với con đường bêtông chạy thẳng tắp giữa cánh đồng. Mới vào đến đầu làng đã nghe mùi thơm của thính lan tỏa ngào ngạt khắp nơi như một nét đặc trưng chỉ thấy ở làng nem Bùi. Cuộc sống ấm no, sung túc của người dân, mà chủ yếu do nghề làm nem mang lại như hiển hiện ra trước mắt.


Nem Bùi được khai sinh ở làng Bùi, xã Ninh Xá, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Trải qua bao thăng trầm, vài năm trở lại đây nem Bùi dần có mặt trên thị trường và trở thành món ẩm thực ngon, rẻ, đồng thời là món quà trao tay ý nghĩa cho bạn bè, người thân sau mỗi dịp ghé qua Bắc Ninh.

Bánh phu thê gọi mùa cưới

Mùa cưới đến cũng là lúc dân làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) nhộn nhịp tiếng chày giã gạo để làm bánh phu thê, một loại bánh truyền thống không thể thiếu trong cỗ cưới của người Việt.


Bánh phu thê - Ảnh: Tiến Thành

Ai đã đến Bắc Ninh hẳn không quên thưởng thức món bánh phu thê thơm dẻo, màu vàng ươm được bọc trong tàu lá chuối, lá dong xanh mướt. Chiếc bánh nhỏ xíu, xinh xinh nhưng gói ghém bao tinh hoa văn hóa ẩm thực của miền Kinh Bắc.


Thăm làng tranh Đông Hồ

Nói đến những giá trị nghệ thuật truyền thống của Việt Nam không thể không nhớ tới tranh dân gian Đông Hồ. Bài này xin được giới thiệu một điểm đến hấp dẫn: làng tranh Đông Hồ nay thuộc thôn Đông Khê, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh để cùng khám phá nét đẹp đặc trưng của một làng nghề Việt Nam.

Làng tranh Đông Hồ nằm bên bờ nam sông Đuống có hơn 240 hộ dân, bình yên như bao làng quê Việt khác. Bây giờ số gia đình chuyên làm về tranh Đông Hồ còn lại không nhiều, khiến những gì còn lưu lại càng trở nên quý giá.



Có một gia đình tiêu biểu còn gìn giữ giá trị này, đó là gia đình ông Nguyễn Đăng Chế đã có 20 đời làm nghề, lâu đời nhất của làng. Cả đại gia đình ông 3 thế hệ đều tâm huyết với tranh Đông Hồ.

Thăm chùa Dận, tưởng nhớ người viết chiếu dời đô

Nằm ngay quốc lộ 1B cũ, tại thôn Chùa Dận, Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh, du khách chẳng mấy khó khăn để đến thăm chùa Dận, ngôi chùa gắn liền với các vị thiền sư có tiếng trong lịch sử như Định Không, Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân. 
Cổng chính nhìn từ sân chùa

Dân gian gọi đây là chùa Rặn, tức “rặn đẻ”. Rồi dần dần gọi chệch thành chùa Dận. Chùa có từ thế kỷ VIII. Cổng chính hai tầng trông ra ruộng lúa xanh mướt. Khuôn viên chùa Dận chia làm ba khu chính. Tòa tam bảo phía trước chùa gồm năm gian hai tầng cùng hai gian hậu cung. Có một điều khác biệt của tòa tam bảo so với những ngôi chùa khác ở Việt Nam. Đó là mái chùa rất cao, ánh sáng tự nhiên tràn vào nhiều nên trong chùa rất sáng.


Chùa Dâu đất Luy Lâu

Vùng đất cổ tích Dâu - Luy Lâu cách Hà Nội chỉ hơn 20km về phía đông, mang trong lòng bao câu truyện cổ. "Dù ai đi đâu về đâu/ Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về/ Dù ai buôn bán trăm nghề/ Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu"... Ai đã một lần đi về Thuận Thành, Bắc Ninh, hãy một lần về thăm chùa Dâu, ngôi chùa cổ kính xưa nhất Việt Nam này.

Theo ghi chép trong sách sử, bia đá, là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt Nam, được xây dựng từ thế kỉ thứ 2 dưới thời Sĩ Nhiếp làm thái thú. Chùa Dâu còn có tên là chùa Diên Ứng, thờ nữ thần Pháp Vân nên còn gọi là chùa Pháp Vân, và nằm trong vùng đất Cổ Châu nên cũng gọi là chùa Cổ Châu. Chùa gắn liền với truyện cổ tích Tứ pháp của người Việt xưa.

Chùa Dâu

Truyện rằng, thuở xưa nàng Man Nương ở vùng Dâu, vì thiền sư Khâu Đà La bước qua người mà mang thai, sinh ra đứa con đem trả nhà sư. Thiền sư bỏ đứa trẻ vào gốc cây dung thụ, lại đưa cho Man Nương cây thiền trượng có thể làm phép lấy nước cứu dân bị hạn hán. Ngày cây dung thụ bật gốc trôi về sông Dâu, thái thú Sĩ Nhiếp muốn vớt lên nhưng không sao làm được, chỉ có nàng Man Nương dùng dải yếm buộc vào nhẹ nhàng đem lên bờ.

Từ thân cây thần kì ấy, người dân tạc bốn pho tượng Nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, tức là bốn chị em thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp của tín ngưỡng nông nghiệp, và đặt thờ ở bốn ngôi chùa Dâu, Đậu, Tướng, Dàn. Giữa cây dung thụ còn một khối đá, gọi là Thạch Quang Phật, được thờ chung ở chùa Dâu. Bà mẹ Man Nương khi mất được thờ trong chùa Tổ cách đó không xa.

Từ câu truyện cổ đó, đã tạo nên một hệ thống chùa Tứ Pháp rất đặc biệt của riêng người Việt: chùa thờ Nữ thần nông nghiệp, thờ người Mẹ Việt, lấy tượng Nữ thần làm trung tâm chứ không phải là tượng Phật. Phật và Nữ thần hòa quyện, bà mẹ của các Nữ thần cũng được tôn là Phật Mẫu Man Nương.

Tượng cừu bằng đá bị mài mòn vết ở chùa Dâu

Kiến trúc chùa Dâu còn đến ngày nay được dựng dưới thời Trần, do trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi trùng tu. Bao quanh tòa điện chính chữ công là những dãy nhà ngang, nhà dọc vây kín theo kiểu nội công ngoại quốc. Chính giữa sân chùa trước bái đường, Mạc Đĩnh Chi đã cho dựng ngôi tháp Hòa Phong cao chín tầng, nay chỉ còn ba. Ngôi tháp vuông xây bằng gạch trần, dáng chắc khỏe nổi bật giữa khung cảnh xung quanh. Tháp tượng trưng cho ngọn núi vũ trụ, bốn góc tháp có bốn tượng Thiên vương trấn giữ, trên tháp treo một khánh đồng cổ.

Dưới chân tháp Hòa Phong có một bức tượng cổ hình một con cừu đá nằm quỳ hai chân trước, được tạc từ gần 2.000 năm trước. Truyện rằng xưa Sĩ Nhiếp có hai con cừu, khi ông chết đi, hai con cừu lang thang khắp ruộng đồng, một con tìm được về lăng Sĩ Nhiếp nằm phủ phục, một con lạc đến chùa Dâu không biết đường về nên ở luôn lại đó nghe kinh. Trên lưng cừu đá có một vết lõm của rất nhiều thế hệ đã mài dao kéo lên đây.

Tháp Hòa Phong dựng từ thời Trần

Trong chính điện chùa Dâu, pho tượng lớn nhất và đẹp nhất là bà Dâu - nữ thần mây Pháp Vân. Pho tượng màu gụ, được ngồi trên tòa sen như tượng Phật, nét mặt như một người mẹ hiền từ nhìn xuống, bàn tay phải đưa ra như vỗ về an ủi, tay trái đặt trong lòng. Bốn phía tòa sen có các vòng sắt để có thể di chuyển tượng trong ngày lễ hội. Tượng được phủ lớp áo vàng, ngày hội khi làm lễ tắm tượng mới thay áo.

Phía trước là nơi đặt Thạch Quang Phật, bàn thờ trước nữa là người em hai Pháp Vũ. Nguyên chùa Đậu bị phá thời Pháp, người dân đem tượng Pháp Vũ về thờ chung với chị tại chùa Dâu. Hai bên bà Dâu còn hai tượng nữ thần giữ chùa, để khi các Bà về thăm mẹ chùa có người coi sóc.

Tượng Nữ thần Pháp Vân tại chính điện

Trong chùa Dâu còn hai pho tượng rất đẹp là tượng Kim đồng và Ngọc nữ, với khuôn mặt sống động, đứng trong tư thế của một điệu múa cổ xưa, đặc biệt tượng Ngọc nữ vấn khăn, rẽ tóc mang đậm tâm hồn người Việt. Ngoài ra trong chùa chính còn rất nhiều các pho tượng cổ: tượng tổ sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi, tượng Mạc Đĩnh Chi, các pho Kim Cương, Hộ pháp. Tượng Phật, Bồ tát, Thánh tăng, Đức ông được bày phía sau cũng là những tác phẩm điêu khắc giá trị.

Tượng Ngọc nữ

Tượng Kim đồng

Chính hội chùa Dâu vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, cũng là ngày Phật đản theo truyền thống cổ, nhưng lễ hội được tổ chức kéo dài từ mấy ngày trước đó. Vào ngày hội, kiệu của các Nữ thần Pháp Vũ từ chùa Đậu, tượng Pháp Lôi từ chùa Tướng, tượng Pháp Điện từ chùa Dàn tụ về chùa Dâu, rồi cùng kiệu Pháp Vân đi đến chùa Tổ thăm mẹ Man Nương.

Trong bốn chị em, Pháp Điện trẻ nhất lại ở xa nhất, vì vậy bao giờ cũng phải đi sớm hơn, nhưng bao giờ cũng đến chùa Dâu trước tiên. Còn khi đã gặp chị cả Pháp Vân ở chùa Dâu, thì phải theo thứ tự mà đi về thăm mẹ. Vì vậy xưa kia sân phía trước chùa rất rộng mới đủ chỗ cho các cỗ kiệu và nghi trượng, tam quan ở tận bến sông Dâu. Ngày nay một phần đất chùa cũng đã bị lấn chiếm, và tam quan chùa cũng lùi vào nhiều lắm.

Các vị Kim cương và Hộ pháp chùa Dâu

Dân gian vùng Dâu đã có câu ca dao nhắc về chùa và hội chùa:

Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.

Ai đã một lần đi về Thuận Thành, Bắc Ninh, hãy một lần về thăm chùa Dâu, ngôi chùa xưa nhất Việt Nam. Và nếu vẫn chưa thỏa tâm nguyện, hãy tìm đến với chùa Tướng, chùa Dàn cách đó không xa. Và đặc biệt là ngôi chùa Tổ thờ người Mẹ Việt - Man Nương đã được tôn lên là Phật Mẫu. Nếu may mắn, các bạn sẽ được nghe các cụ già trong chùa ngồi kể lại câu truyện Phật Mẫu Man Nương qua bản thơ lục bát cổ xưa “Cổ Châu Phật bản hạnh”:

…Bốn chùa Sĩ Vương dựng làm
Trung trùng điện các tượng vàng tốt thay
Người ta hội họp rồng mây
Đôi bên phố xá xem tày cảnh tiên
Khai quang khánh tán mãn viên
Đặt làm lệ hội Tràng Yên thuở này…


Bài và ảnh: CHITTO