9 thg 2, 2013

Du ngoạn Ngũ Hành Sơn

Cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng bảy cây số, Ngũ Hành Sơn là chốn thiền môn hoang sơ, tĩnh lặng, thu hút du khách đến khám phá, chiêm nghiệm, thoát ra khỏi cuộc sống ồn ào của phố thị.

Ngũ Hành Sơn là năm ngọn núi vươn ra như năm ngón tay có tên theo ngũ hành: Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn và Thổ Sơn. Những ngọn núi ấy thành tên từ thế kỷ 19 do vua Minh Mạng đặt. Có nhiều truyền thuyết về sự hình thành Ngũ Hành Sơn, trong đó có chuyện kể rằng: Ngày xưa, nơi đây là vùng biển hoang vu, chỉ có một ông già sống đơn độc trong túp lều tranh. Một hôm, trời đang sáng bỗng nhiên tối sầm, giông bão nổi lên, một con giao long rất lớn xuất hiện vùng vẫy trên bãi cát và một quả trứng khổng lồ. Lát sau, một con rùa vàng xuất hiện, tự xưng là thần Kim Quy, đào cát vùi quả trứng xuống và giao cho ông già nhiệm vụ bảo vệ giọt máu của Long Quân.

Quả trứng càng ngày càng lớn, nhô lên cao, chiếm cả vùng đất rộng lớn. Vỏ trứng ánh lên đủ màu sắc xanh, đỏ, trắng, vàng, tím, lấp lánh như hòn gạch khổng lồ. Hôm khác, ông lão vừa chợp mắt thì nghe có tiếng lửa cháy, trong lòng trứng xuất hiện một cái hang rộng rãi, mát mẻ. Ông cầu cứu móng rùa- vật mà thần Kim Quy đã giao lại cho ông lúc ra đi rồi đặt lưng xuống ngủ thiếp luôn. Ông không biết đang xảy ra phép lạ: một cô gái xinh xắn bước ra từ trong trứng và nơi ông nằm là một trong năm hòn cẩm thạch vừa được hình thành từ năm mảnh vỏ trứng, sau thành năm 5 ngọn núi Ngũ Hành Sơn như bây giờ. 

Đường lên Ngũ Hành Sơn đi giữa những vách đá đầy màu sắc.

Huế di sản văn hóa thế giới

Trong quần thể những công trình kiến trúc của Huế được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hóa thế giới, cụm kinh thành Huế được đánh giá là một quần thể kiến trúc đồ sộ và có giá trị hơn cả.

Nghiêng mình bên dòng Hương Giang xanh hiền hòa của mền Trung ruột thịt, thành phố mà chúng ta đang nói đến mang một cái tên đơn âm nôm na như bao làng mạc cổ Việt Nam: Huế. Trải bao thăng trầm lịch sử, tên những làng mạc cổ dần dần chìm khuất, nhưng Huế vẫn giữ nguyên cái tên “cúng cơm” ban đầu của mình để đi vào thế giới hiện đại.

Thành phố không lớn, nằm trên một dải đất hẹp, nắng mưa khắc nghiệt, ít được thiên nhiên ưu đãi nhất miền Trung, thế nhưng nơi đây từ thời Chúa Nguyễn đã được chọn làm thủ phủ xứ “Đàng Trong”. Từ năm 1635 – 1687, Chúa Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần dựng phủ ở Kim Long; từ 1688 đến 1774 Chúa Nguyễn Phúc Thái và Nguyễn Phúc Khoát dời phủ về Phú Xuân. Đến thời Tây Sơn, Huế vẫn được vua Quang Trung chọn làm kinh đô.

Toàn cảnh quần thể kiến trúc kinh thành Huế nhìn từ trên cao. Ảnh: Tư liệu của Mạnh Thường.

8 thg 2, 2013

Độc đáo Nhà Trăm Cột

Ở tả ngạn sông Vàm Cỏ Đông, thuộc xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đước, tỉnh Long An, Nhà Trăm Cột là công trình kiến trúc điêu khắc cổ mang phong cách “nhà rường” Huế điển hình nằm lọt giữa vùng quê Nam Bộ đã có từ hơn 100 năm nay. Công trình đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch - PV) xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia năm 1997... 

Ngôi nhà này được khởi công vào năm 1901, đến năm 1903 thì hoàn thành và năm 1904 thì xong phần chạm khắc trang trí do nhóm 15 thợ từ làng Mỹ Xuyên - làng chạm khắc mộc nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế thực hiện bằng chất liệu chủ yếu là các loại gỗ quý như cẩm lai, mun... Với diện tích 882m2, Nhà Trăm Cột tọa lạc trên một khu vườn rộng 4.044m2, chính diện quay về hướng Tây Bắc. Nhà làm bằng các loại gỗ cẩm lai, gõ đỏ, gõ mật; mái lợp ngói âm dương, nền nhà bằng đá tảng cao 0,9m, mặt nền lát gạch Tàu lục giác. Nhìn trên bình đồ, Nhà Trăm Cột có kiểu chữ “Quốc”, 3 gian, 2 chái. 

Nhà Trăm Cột mang phong cách “nhà rường” Huế.

Hội làng Thổ Hà

Làng Thổ Hà thuộc xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, lâu nay được coi là mảnh đất “Địa linh nhân kiệt”, nơi có không gian văn hóa làng đặc trưng với các công trình đình, đền, chùa, tiêu biểu cho vùng Kinh Bắc. Cùng với nó còn có sự góp mặt của hội làng Thổ Hà, một trong những lễ hội đặc sắc ở Việt Nam.

Hội làng Thổ Hà được tổ chức trong ba ngày, từ 20 đến 22 tháng Giêng âm lịch, nhưng chính hội là ngày 21. Hội ba năm mới tổ chức rước một lần nên mỗi dịp có lễ hội là dân làng lại náo nức đón chờ. Từ Hà Nội, để có thể sang dự hội, chúng tôi phải qua bến đò Thổ Hà phía bờ hữu ngạn sông Cầu. Bến đò vào ngày hội làng tấp nập khác thường. Hướng tầm mắt về phía làng Thổ Hà thấy cổng chào bằng gỗ được dựng lên rất trang trọng. Anh lái đò giải thích rằng, tục lệ dựng cổng chào này đã có cả ngàn năm nay, từ thời nhà Lý (1010 - 1225). Thời ấy, cứ ngày mùng 5 Tết Nguyên đán, nhà vua lại cùng cận thần từ Thăng Long (nay là Hà Nội) đi thuyền xuôi sông Hồng xuống Hải Phòng rồi ngược sông Cầu lên đình Thổ Hà uống rượu làng Vân.

Lễ rước Thành hoàng làng của hội làng Thổ Hà.

Chuồn chuồn Phú Quốc

Phú Quốc (Kiên Giang) được mệnh danh là “đảo ngọc” bởi sự giàu có của thiên nhiên và tiềm năng du lịch phong phú. Vườn quốc gia Phú Quốc có một lớp thảm thực vật phong phú cùng độ che phủ hơn 80% rừng tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loài côn trùng ẩn náu và phát triển mạnh mẽ, trong đó có 54 loài chuồn chuồn (chiếm 23% trong tổng số 235 loài chuồn chuồn Việt Nam được công bố năm 2006) được Tổ chức WAR (Wildlife At Risk), một tổ chức phi chính phủ hoạt động bảo tồn tài nguyên thiên nhiên tại Việt Nam, ghi nhận.

Khu hệ chuồn chuồn Phú Quốc khá phong phú được coi là nhóm động vật đầy màu sắc tự nhiên: trắng, đen, xanh, vàng, đỏ, tía... Điều lí thú là có những loài từng được các nhà khoa học thế giới công bố phát hiện cách đây 100 năm hay 200 năm nay cũng lại thấy ở Phú Quốc như: Newrobasis chinsis (Linnaeus, 1758), Orthetrum chrysis (Selys, 1891). Tháng 12/2008, WAR ghi nhận thêm 5 loài chuồn chuồn mới ở Phú Quốc được phát hiện dọc theo một số con suối chảy qua các khu rừng và các vùng địa hình khác nhau. Do nhóm chuồn chuồn chưa được nghiên cứu nhiều nên tên các loài vẫn chỉ thể hiện ở dạng tên khoa học. Tên chuồn chuồn Việt Nam đa số gọi theo dân gian, dựa vào hình dáng hay màu sắc như: chuồn chuồn ớt, chuồn chuồn ngô, chuồn chuồn kim…

Đua ngựa truyền thống trên gò Thì Thùng

Đã trở thành truyền thống, vào mỗi dịp xuân về, những chú ngựa thồ quanh năm gắn bó với cuộc sống người dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên lại có dịp tham gia vào Hội đua ngựa gò Thì Thùng. Năm nay, 32 kỵ sĩ là nông dân chân chất đã tham gia ngày hội, thu hút hàng ngàn người dân địa phương và du khách gần xa đến xem.

Đua ngựa truyền thống trên gò Thì Thùng (xã An Xuân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) đã trở thành một trong những hoạt động văn hoá đặc sắc của người dân nơi đây. Ngày hội đua ngựa năm nay diễn ra vào mồng 9 Tết (ngày 11/2 Dương lịch) với 32 kỵ sĩ là những nông dân chân chất, sống ở các xã An Cư, An Hiệp, An Lĩnh, An Thọ và An Xuân thuộc huyện Tuy An. 

Gò Thì Thùng cách tỉnh lỵ Phú Yên khoảng 40 cây số về phía Tây Bắc và là di tích lịch sử cấp Quốc gia với địa hình bằnh phẳng. Do vậy, mặc dù địa điểm đua ngựa chỉ là một khoảng đất trống rộng hơn một sân vận động và ở độ cao 440 mét so với mặt nước biển nhưng đã thu hút hàng ngàn người trong, ngoài tỉnh nô nức về đây chen dọc hai bên đường đua dài chừng một cây số để thưởng thức, cổ vũ. Ở cuộc đua năm nay, xã An Hiệp đã giành giải nhất toàn đoàn. Tuy nhiên, giải thưởng lớn nhất là mọi người được dự ngày hội Năm mới và xem những chú ngựa lướt sóng trên đường đua như thế nào. 


Tạo hồn cho đá

Khác với những làng đá nổi tiếng khác, nét độc đáo của làng đá Ninh Vân thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình chính là ở các sản phẩm đá mỹ nghệ được chế tác hoành tráng trên các công trình lớn như: đình, chùa, lăng mộ, tượng đài, phù điêu... Theo các cụ cao niên trong làng kể lại, xưa kia, nơi đây đã nổi tiếng với nghề làm tượng đá cho kinh thành và đền chùa ở Hoa Lư, từ thời các vua Đinh (968 - 980), Tiền Lê (980 - 1009).

Những người dân làng nghề cũng đã từng tới Thăng Long, theo vua Lý Thái Tổ sinh cơ lập nghiệp, tạo nên những bức tượng đá, thành quách và chùa chiền từ thời Lý (1010 - 1225) qua thời Trần (1225 - 1400).

Nghệ nhân bậc thầy Hoàng Sùng, người gốc Thanh Hóa được coi là ông Tổ nghề chạm khắc đá mỹ nghệ Ninh Vân. Cái tên làng đá Ninh Vân vốn là tên gọi chung của hai làng Xuân Vũ và làng Hệ. Trong đó, làng Hệ là nơi khởi đầu nghề điêu khắc đá, nơi còn lưu giữ văn bia ghi công ông Tổ nghề, ngày giỗ Tổ vào tháng 8 (âm lịch) hàng năm.

Người nghệ nhân đang thổi hồn vào phiến đá.

Hoàng thành Thăng Long - một di sản văn hóa vô giá

Di sản Văn hóa Thế giới Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội rộng chừng 18.000m 2 trên tổng số hàng chục nghìn mét vuông tập trung ở khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và khu vực thành cổ Hà Nội. Đây là nơi chứa đựng một di sản văn hóa vô giá không những tiêu biểu cho những tinh hoa văn hóa dân tộc mà còn mang những giá trị có ý nghĩa toàn cầu nổi bật.

Khu di sản gồm một số di tích trên mặt đất, có niên đại sớm nhất là nền điện Kính Thiên thời Lê Sơ với bậc thềm đá và lan can đá chạm rồng làm năm 1467. Cửa Đoan Môn là cửa Nam của Cấm thành Thăng Long, rồi đến di tích thành Hà Nội thời Nguyễn có Cửa Bắc và Kỳ đài (thường gọi là Cột Cờ). Cuối thế kỷ XIX còn để lại một số kiến trúc quân sự của quân Pháp như Chỉ huy sở pháo binh xây dựng trên một phần nền điện Kính Thiên... Rõ ràng qua sự hủy hoại của thời gian, sự tàn phá của chiến tranh và cả hành động phá hoại của con người, di tích trên mặt đất của Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn vật không còn mấy. 

Nhưng may mắn là lòng đất còn bảo tồn được nhiều di tích, di vật của các thời kỳ lịch sử như nhiều nhà sử học, khảo cổ học thường nói là "có một Thăng Long - Hà Nội trong lòng đất". Những di tích này dĩ nhiên không toàn vẹn bởi chúng tồn tại dưới dạng các phế tích nhưng vô cùng phong phú và mang tính xác thực rất cao. Điều đáng lưu ý là những giá trị đặc biệt của "Thăng Long - Hà Nội trong lòng đất" lại tập trung cao độ trong khu di sản “Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội”.

Cổng thành Cửa Bắc, một trong những dấu tích còn nguyên vẹn của Hoàng thành Thăng Long xưa. 

Lễ cúng Tuần của người Chăm

Theo tục lệ của người Chăm hồi giáo Bà Ni ở Bình Thuận, sau khi kết thúc lễ mai tán, gia đình người quá cố tiếp tục làm lễ cúng Tuần (tiếng Chăm gọi là Phathi) ở nhà trong 3 ngày. Ngày đầu gọi là “Dấu Van”, ngày thứ hai “Tak Ku Bâu Yâu” ( lễ giết trâu), ngày thứ ba “Pố Non” (lễ tiễn đưa). Vật phẩm trong lễ cúng Tuần gồm một cặp trâu, một tấn gạo, cá, trầu cau, đường… 

Các nghi lễ cúng Tuần hầu hết sẽ do thầy Cả điều khiển, đọc kinh cùng với các tăng lữ. Những người trong làng đến tham dự sẽ giúp gia đình dựng “chànk” (nhà lều) để làm lễ. Ngay sau lễ mai táng vào buổi sáng, vào tầm 4 - 5 giờ chiều, gia đình sẽ tiến hành làm lễ Dấu Van với những lễ vật rất đơn sơ, chỉ có cơm với thịt gà.

Đoàn người dâng lễ vật trong Lễ Pố Non tại thôn Văn Lâm 4, thuộc xã Văn Lâm, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. 

7 thg 2, 2013

Sông nước Cần Thơ

Ai đã có dịp về Cần Thơ sẽ không thể nào quên được nhịp sống đầy sôi động của vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nên thơ, trù phú và khu du lịch phù sa hấp dẫn với nhiều món ăn ngon.

Cảm nhận đầu tiên khi đến Cần Thơ chính là không gian xanh trải dài của rừng bần. Cũng không có gì ngạc nhiên khi bạn bắt gặp rất nhiều những chiếc xuồng nhỏ dọc ngang trên sông nước. Cùng với xuồng là hồ sen và những chiếc lu nhỏ. Không ít người dân xa Cần Thơ lâu năm, gặp lại hình ảnh chiếc xuống, chiếc lu mà rưng rưng nước mắt, bởi những hình ảnh đó như gợi lại kí ức tuổi thơ của họ một thời.

Đón chào du khách về thăm Cần Thơ là những hàng cọ xanh mát xoè ô che kín lối đi. Trẻ con thì thích ôm thân cọ chụp ảnh, người lớn thích vít cành cọ để có cảm giác lá cọ ram ráp bên tay. Cần Thơ còn đẹp và tươi mới ở chính những tum nhà lá nhỏ. Vào thăm từng tum nhà, du khách như được đi trong một thế giới của lá dừa. Dọc theo các bờ kênh là những tum nhà lá, vườn cây ăn quả mát mắt và tươi xanh. Chính vì nằm cạnh rừng bần nên du khách được chứng kiến nào khỉ, nào sóc, cùng với cuốc, gà nước, chim, cò từ đâu bay đến, nhảy nhót, hót líu lo làm nên một không gian sinh động.

Bến Ninh Kiều là nơi khởi đầu chuyến hành trình khám phá vùng sông nước của du khách. ảnh: Trang Linh.