Vùng đất cổ tích Dâu - Luy Lâu cách Hà Nội chỉ hơn 20km
về phía đông, mang trong lòng bao câu truyện cổ. "Dù ai đi đâu về đâu/
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về/ Dù ai buôn bán trăm nghề/ Nhớ ngày
mồng tám thì về hội Dâu"... Ai đã một lần đi về Thuận Thành, Bắc Ninh,
hãy một lần về thăm chùa Dâu, ngôi chùa cổ kính xưa nhất Việt Nam này.
Theo ghi chép trong sách sử, bia đá, là ngôi chùa Phật
giáo cổ nhất Việt Nam, được xây dựng từ thế kỉ thứ 2 dưới thời Sĩ Nhiếp
làm thái thú. Chùa Dâu còn có tên là chùa Diên Ứng, thờ nữ thần Pháp Vân
nên còn gọi là chùa Pháp Vân, và nằm trong vùng đất Cổ Châu nên cũng
gọi là chùa Cổ Châu. Chùa gắn liền với truyện cổ tích Tứ pháp của người Việt xưa.
Chùa Dâu
Truyện rằng, thuở xưa nàng Man Nương ở vùng Dâu, vì
thiền sư Khâu Đà La bước qua người mà mang thai, sinh ra đứa con đem trả
nhà sư. Thiền sư bỏ đứa trẻ vào gốc cây dung thụ, lại đưa cho Man Nương
cây thiền trượng có thể làm phép lấy nước cứu dân bị hạn hán. Ngày cây
dung thụ bật gốc trôi về sông Dâu, thái thú Sĩ Nhiếp muốn vớt lên nhưng
không sao làm được, chỉ có nàng Man Nương dùng dải yếm buộc vào nhẹ
nhàng đem lên bờ.
Từ thân cây thần kì ấy, người dân tạc bốn pho tượng Nữ
thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, tức là bốn chị em thần Mây,
Mưa, Sấm, Chớp của tín ngưỡng nông nghiệp, và đặt thờ ở bốn ngôi chùa
Dâu, Đậu, Tướng, Dàn. Giữa cây dung thụ còn một khối đá, gọi là Thạch
Quang Phật, được thờ chung ở chùa Dâu. Bà mẹ Man Nương khi mất được thờ
trong chùa Tổ cách đó không xa.
Từ câu truyện cổ đó, đã tạo nên một hệ thống chùa Tứ
Pháp rất đặc biệt của riêng người Việt: chùa thờ Nữ thần nông nghiệp,
thờ người Mẹ Việt, lấy tượng Nữ thần làm trung tâm chứ không phải là
tượng Phật. Phật và Nữ thần hòa quyện, bà mẹ của các Nữ thần cũng được
tôn là Phật Mẫu Man Nương.
Tượng cừu bằng đá bị mài mòn vết ở chùa Dâu
Kiến trúc chùa Dâu còn đến ngày nay được dựng dưới thời
Trần, do trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi trùng tu. Bao quanh tòa điện chính
chữ công là những dãy nhà ngang, nhà dọc vây kín theo kiểu nội công
ngoại quốc. Chính giữa sân chùa trước bái đường, Mạc Đĩnh Chi đã cho
dựng ngôi tháp Hòa Phong cao chín tầng, nay chỉ còn ba. Ngôi tháp vuông
xây bằng gạch trần, dáng chắc khỏe nổi bật giữa khung cảnh xung quanh.
Tháp tượng trưng cho ngọn núi vũ trụ, bốn góc tháp có bốn tượng Thiên
vương trấn giữ, trên tháp treo một khánh đồng cổ.
Dưới chân tháp Hòa Phong có một bức tượng cổ hình một
con cừu đá nằm quỳ hai chân trước, được tạc từ gần 2.000 năm trước.
Truyện rằng xưa Sĩ Nhiếp có hai con cừu, khi ông chết đi, hai con cừu
lang thang khắp ruộng đồng, một con tìm được về lăng Sĩ Nhiếp nằm phủ
phục, một con lạc đến chùa Dâu không biết đường về nên ở luôn lại đó
nghe kinh. Trên lưng cừu đá có một vết lõm của rất nhiều thế hệ đã mài
dao kéo lên đây.
Tháp Hòa Phong dựng từ thời Trần
Trong chính điện chùa Dâu, pho tượng lớn nhất và đẹp
nhất là bà Dâu - nữ thần mây Pháp Vân. Pho tượng màu gụ, được ngồi trên
tòa sen như tượng Phật, nét mặt như một người mẹ hiền từ nhìn xuống, bàn
tay phải đưa ra như vỗ về an ủi, tay trái đặt trong lòng. Bốn phía tòa
sen có các vòng sắt để có thể di chuyển tượng trong ngày lễ hội. Tượng
được phủ lớp áo vàng, ngày hội khi làm lễ tắm tượng mới thay áo.
Phía trước là nơi đặt Thạch Quang Phật, bàn thờ trước
nữa là người em hai Pháp Vũ. Nguyên chùa Đậu bị phá thời Pháp, người dân
đem tượng Pháp Vũ về thờ chung với chị tại chùa Dâu. Hai bên bà Dâu còn
hai tượng nữ thần giữ chùa, để khi các Bà về thăm mẹ chùa có người coi
sóc.
Tượng Nữ thần Pháp Vân tại chính điện
Trong chùa Dâu còn hai pho tượng rất đẹp là tượng Kim
đồng và Ngọc nữ, với khuôn mặt sống động, đứng trong tư thế của một điệu
múa cổ xưa, đặc biệt tượng Ngọc nữ vấn khăn, rẽ tóc mang đậm tâm hồn
người Việt. Ngoài ra trong chùa chính còn rất nhiều các pho tượng cổ:
tượng tổ sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi, tượng Mạc Đĩnh Chi, các pho Kim Cương, Hộ
pháp. Tượng Phật, Bồ tát, Thánh tăng, Đức ông được bày phía sau cũng là
những tác phẩm điêu khắc giá trị.
Tượng Ngọc nữ
Chính hội chùa Dâu vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, cũng là
ngày Phật đản theo truyền thống cổ, nhưng lễ hội được tổ chức kéo dài từ
mấy ngày trước đó. Vào ngày hội, kiệu của các Nữ thần Pháp Vũ từ chùa
Đậu, tượng Pháp Lôi từ chùa Tướng, tượng Pháp Điện từ chùa Dàn tụ về
chùa Dâu, rồi cùng kiệu Pháp Vân đi đến chùa Tổ thăm mẹ Man Nương.
Trong bốn chị em, Pháp Điện trẻ nhất lại ở xa nhất, vì
vậy bao giờ cũng phải đi sớm hơn, nhưng bao giờ cũng đến chùa Dâu trước
tiên. Còn khi đã gặp chị cả Pháp Vân ở chùa Dâu, thì phải theo thứ tự mà
đi về thăm mẹ. Vì vậy xưa kia sân phía trước chùa rất rộng mới đủ chỗ
cho các cỗ kiệu và nghi trượng, tam quan ở tận bến sông Dâu. Ngày nay
một phần đất chùa cũng đã bị lấn chiếm, và tam quan chùa cũng lùi vào
nhiều lắm.
Các vị Kim cương và Hộ pháp chùa Dâu
Dân gian vùng Dâu đã có câu ca dao nhắc về chùa và hội chùa:
Dù ai đi đâu về đâuHễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.
Ai đã một lần đi về Thuận Thành, Bắc Ninh, hãy một lần
về thăm chùa Dâu, ngôi chùa xưa nhất Việt Nam. Và nếu vẫn chưa thỏa tâm
nguyện, hãy tìm đến với chùa Tướng, chùa Dàn cách đó không xa. Và đặc
biệt là ngôi chùa Tổ thờ người Mẹ Việt - Man Nương đã được tôn lên là
Phật Mẫu. Nếu may mắn, các bạn sẽ được nghe các cụ già trong chùa ngồi
kể lại câu truyện Phật Mẫu Man Nương qua bản thơ lục bát cổ xưa “Cổ Châu
Phật bản hạnh”:
…Bốn chùa Sĩ Vương dựng làm
Trung trùng điện các tượng vàng tốt thay
Người ta hội họp rồng mây
Đôi bên phố xá xem tày cảnh tiên
Khai quang khánh tán mãn viên
Đặt làm lệ hội Tràng Yên thuở này…
Bài và ảnh: CHITTO