Đó là khẳng định của nhà “Hà Tiên học” Trương Minh Đạt. Theo ông thì đây là sự lầm lẫn đáng tiếc xảy ra do các tác giả Đông Hồ và Mộng Tuyết, và điều này ông đã có bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử hồi năm 1999.
Châu Nham ở Bãi Ớt
Ông Đạt đưa ra các nguồn tài liệu để chứng minh cho ý kiến của mình là sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Đại Nam thực lục chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn, Nam kỳ lục tỉnh dư địa chí của Duy Minh Thị... Và gần nhất là Địa chí Hà Tiên in năm 1901 của người Pháp.
Đặc biệt, Gia Định thành thông chí mô tả khá chi tiết: “Châu Nham tục danh là Bãi Ớt, cách phía đông trấn 22 dặm rưỡi, đỉnh núi tròn xoe, sườn đá chênh vênh chạy thẳng đến bờ biển, có những ghềnh rạng gồ ghề, vũng sâu bùn cát bao bọc hai bên tả hữu. Trong vũng có đá tinh quang, ở dưới có nhiều con sò sọc đỏ. Tương truyền khi Mạc Cửu còn nhỏ đi đến dưới nham ấy bắt được ngọc châu kính thốn quý báu vô giá. Cửu đem dâng cho vua...”. Địa chí Hà Tiên ghi vắn tắt “Đồi Châu Nham trong cụm núi Bãi Ớt, xưa che giấu một viên ngọc trai quý vô giá”.
1 thg 2, 2013
Dấu ấn Tây An cổ tự
Tây An cổ tự tọa lạc tại ngã ba, bên chân núi Sam, thuộc phường Núi Sam, TX.Châu Đốc (An Giang).
Đây là một ngôi chùa có lối kiến trúc khá độc đáo, kết hợp hài hòa hai dòng văn hóa Việt-Chăm, được Bộ Văn hóa xếp hạng là "di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia” từ năm 1980. Sự ra đời của ngôi chùa mang dấu ấn về chính sách văn hóa của triều Nguyễn “khai hoang lập chùa”. Đây cũng là nơi gắn với hành trạng của người sáng lập Bửu Sơn Kỳ hương, do đó dân gian thường gọi ông Đoàn Minh Huyên là Phật thầy Tây An.
Khai hoang lập chùa
Trong kế hoạch khai hoang lập đồn điền và các chính sách an dân, các quan nhà Nguyễn đã có sự thỏa thuận với hòa thượng các tông phái Phật giáo, đồn điền lập đến đâu thì xây cất chùa chiền đến đó để lo đời sống tinh thần, giúp dân an cư lạc nghiệp. Dường như chùa Tây An ở núi Sam (TX.Châu Đốc, tỉnh An Giang) ra đời nhằm thực hiện nhất quán chủ trương này.
Đây là một ngôi chùa có lối kiến trúc khá độc đáo, kết hợp hài hòa hai dòng văn hóa Việt-Chăm, được Bộ Văn hóa xếp hạng là "di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia” từ năm 1980. Sự ra đời của ngôi chùa mang dấu ấn về chính sách văn hóa của triều Nguyễn “khai hoang lập chùa”. Đây cũng là nơi gắn với hành trạng của người sáng lập Bửu Sơn Kỳ hương, do đó dân gian thường gọi ông Đoàn Minh Huyên là Phật thầy Tây An.
Khai hoang lập chùa
Trong kế hoạch khai hoang lập đồn điền và các chính sách an dân, các quan nhà Nguyễn đã có sự thỏa thuận với hòa thượng các tông phái Phật giáo, đồn điền lập đến đâu thì xây cất chùa chiền đến đó để lo đời sống tinh thần, giúp dân an cư lạc nghiệp. Dường như chùa Tây An ở núi Sam (TX.Châu Đốc, tỉnh An Giang) ra đời nhằm thực hiện nhất quán chủ trương này.
Tây An cổ tự với kiểu kiến trúc rất độc đáo - Ảnh: H.P
Ba Chúc bên núi Tượng
Miếu Vạn Ban nằm sát chân núi Tượng thuộc ấp An Định, thị trấn Ba Chúc, H.Tịnh Biên (An Giang) là một trong những cơ sở tín ngưỡng của Tứ ân hiếu nghĩa - một dạng tôn giáo cứu thế, nhánh phát triển của Bửu sơn Kỳ hương.
Thị trấn Ba Chúc ngày nay được hình thành từ các cuộc khởi nghĩa chống Pháp hồi cuối thế kỷ 19 ở một số tỉnh Nam kỳ, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa do Đức Bổn sư Ngô Lợi lãnh đạo.
Chiêu binh khởi nghĩa
Ngô Lợi có thể tên là Ngô Văn Lợi, chữ Hán viết trang trọng là Ngô Tự Lợi. Theo tài liệu của nhà văn Sơn Nam, Ngô Lợi quê ở làng Trà Tân (nay là xã Long Trung, H.Cai Lậy, Tiền Giang), nhưng cũng có người nói quê ông ở Trà Lọt (H.Cái Bè) hoặc Mỏ Cày (Bến Tre)…
Thị trấn Ba Chúc ngày nay được hình thành từ các cuộc khởi nghĩa chống Pháp hồi cuối thế kỷ 19 ở một số tỉnh Nam kỳ, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa do Đức Bổn sư Ngô Lợi lãnh đạo.
Chiêu binh khởi nghĩa
Ngô Lợi có thể tên là Ngô Văn Lợi, chữ Hán viết trang trọng là Ngô Tự Lợi. Theo tài liệu của nhà văn Sơn Nam, Ngô Lợi quê ở làng Trà Tân (nay là xã Long Trung, H.Cai Lậy, Tiền Giang), nhưng cũng có người nói quê ông ở Trà Lọt (H.Cái Bè) hoặc Mỏ Cày (Bến Tre)…
Miếu Vạn Ban dưới chân núi Tượng - Ảnh: N.P
30 thg 1, 2013
Về Thanh Hóa thăm di tích Lam Kinh
Nằm cách Hà Nội 150km, khu di tích lịch sử cấp quốc gia Lam Kinh ở xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân là một trong những danh thắng nổi tiếng của tỉnh Thanh Hóa. Di tích này nằm giữa một vùng cây cối xanh tươi, rộng khoảng 30ha, gồm đền, miếu, lăng và một hành cung của các vua nhà Hậu Lê mỗi lần về bái yết tổ tiên.
Thành điện Lam Kinh
Lê Lợi sau 10 năm lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1428) đã giành thắng lợi và lên ngôi vua, đóng đô ở Thăng Long. Đồng thời ông cho xây dựng ở quê nhà Thanh Hóa một kinh thành gọi là Lam Kinh hay còn gọi là Tây Kinh.
Lữ thứ bên hồ phố lạnh
Ở phố núi Đà Lạt, cái thực thể tự nhiên đối lập với lớp lớp núi đồi kia chính là hồ Xuân Hương. Tôi gọi hồ nước này là phần âm của đô thị so với phần dương đồi núi. Ở đó, có những ngày nắng đẹp đến hoang vu cho dù ngay giữa thành phố, tôi thường ném suy nghĩ vào nó để tinh lọc mình trong không gian tự nhiên. Có một ngày, nhận ra hồ nước này không phải thứ bất động, nó là một phần của cõi nhân gian…
Người Đà Lạt nào mà mỗi ngày chẳng phải qua lại hồ Xuân Hương. Đã “ra phố” thì phải ngang nó, phải đụng, phải chạm, phải giáp mặt với cái hồ danh thắng đặc sắc xếp hạng Di sản quốc gia này…
Người Đà Lạt nào mà mỗi ngày chẳng phải qua lại hồ Xuân Hương. Đã “ra phố” thì phải ngang nó, phải đụng, phải chạm, phải giáp mặt với cái hồ danh thắng đặc sắc xếp hạng Di sản quốc gia này…
Độc đáo nước chấm Việt
Mark Lowerson, cây bút nước ngoài sống tại Hà Nội chuyên viết về ẩm thực, đặc biệt là ẩm thực Việt, từng viết: “Tôi không rõ liệu có nền ẩm thực nào khác trên thế giới có được đặc trưng trội bật về các loại nước chấm như tại xứ sở này”. Quả thật, chỉ riêng các loại nước chấm cũng cho thấy sự phong phú, đa dạng của ẩm thực Việt Nam.
Trong một bữa ăn thuần Việt với nhiều món khác nhau thì mỗi món có thể đi cùng một loại nước chấm riêng, giống như khi chơi đánh bài phải có những quy tắc riêng cho mỗi loại bài, không thể chơi bài ba lá với quy tắc của bài sáu lá. “Đến một quán bia hơi bất kỳ ở Hà Nội – Mark Lowerson viết – cứ gọi bốn hoặc năm đĩa mồi khác nhau thì mỗi đĩa lại có một loại thức chấm khác”.
Đủ kiểu nước mắm
Trong một bữa ăn thuần Việt với nhiều món khác nhau thì mỗi món có thể đi cùng một loại nước chấm riêng, giống như khi chơi đánh bài phải có những quy tắc riêng cho mỗi loại bài, không thể chơi bài ba lá với quy tắc của bài sáu lá. “Đến một quán bia hơi bất kỳ ở Hà Nội – Mark Lowerson viết – cứ gọi bốn hoặc năm đĩa mồi khác nhau thì mỗi đĩa lại có một loại thức chấm khác”.
Đủ kiểu nước mắm
Bánh xèo miền Nam ăn với nước mắm đồ chua
Yên Tử lãng đãng mây ngàn
Vào nhưng tháng không có sương mù, núi rừng Yên Tử chập chùng ẩn hiện những tòa tháp, chùa chiền như chốn bồng lai. Ảnh: Bảo Thư
Lũy Thầy - 400 năm còn một chút này
Chỉ có những người khách lạ khi dừng chân Đồng Hới, Quảng Bình mới tìm tới Lũy Thầy, như thể để nhìn lại một công trình quân sự được xây dựng chỉ còn một đoạn ở đường Quách Xuân Kỳ và phía tây phường Phú Hải. Nhưng dẫu đã đứng ngay bên cạnh con đường khá đẹp chạy dọc theo dòng sông Nhật Lệ, nếu không có người hướng dẫn thì khó mà tìm được Lũy Thầy nằm ở đâu, còn được bao nhiêu chiều dài và hiện tại như thế nào.
Theo sử sách thì vào năm 1630, chúa Nguyễn Phúc Nguyên giao cho Đào Duy Từ xây dựng hai công trình phòng thủ là Lũy Trường Dục thuộc xã Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh bây giờ và Lũy Thầy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu tỉnh Quảng Bình nhằm bảo vệ đàng trong trước những cuộc tấn công của chúa Trịnh đàng ngoài. Gọi là Lũy Thầy vì chúa Nguyễn coi Đào Duy Từ như thầy của mình.
Theo sử sách thì vào năm 1630, chúa Nguyễn Phúc Nguyên giao cho Đào Duy Từ xây dựng hai công trình phòng thủ là Lũy Trường Dục thuộc xã Hàm Ninh, huyện Quảng Ninh bây giờ và Lũy Thầy từ cửa sông Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu tỉnh Quảng Bình nhằm bảo vệ đàng trong trước những cuộc tấn công của chúa Trịnh đàng ngoài. Gọi là Lũy Thầy vì chúa Nguyễn coi Đào Duy Từ như thầy của mình.
Âm vang Tiêu tự thần chung
Tọa lạc tại số 75 đường Phương Thành, TX.Hà Tiên (Kiên Giang), Sắc tứ Tam Bảo là một trong những ngôi chùa xưa nhất ở Hà Tiên. Đây là ngôi chùa do Tổng binh Mạc Cửu xây dựng để thân mẫu của ông là Thái Thái phu nhân tu hành trong những năm cuối đời.
Theo sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang thì chùa Tam Bảo được xây dựng vào năm 1730. Thời Tao đàn Chiêu Anh các, tiếng chuông chùa là nguồn cảm hứng để Mạc Thiên Tích sáng tác bài thơ Tiêu tự thần chung. Nhưng lịch sử ngôi chùa qua nhiều thăng trầm, biến đổi nên cũng còn những điều chưa rõ.
Lịch sử chùa Sắc tứ Tam Bảo
Căn cứ bài thơ Tiêu tự thần chung của Mạc Thiên Tích, ni trưởng Như Hải, trụ trì Sắc tứ Tam Bảo, giải thích rằng “Tiêu tự” là nơi tu hành tĩnh mịch, “thần chung” là tiếng chuông thỉnh buổi sáng và suy luận ngôi chùa xưa ở sát công thự (của Tổng binh Mạc Cửu). Cách giải thích này khá gần với thông tin mà nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt cung cấp cho chúng tôi: “Thời Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, nơi ngôi chùa tọa lạc hiện nay vốn là Trấn thượng/dinh cơ của Mạc Cửu, phía sau hậu liêu ông có cất một gian phòng cho mẫu thân ông tu hành. Vào năm 1718, Hà Tiên bị quân Xiêm tấn công. Bấy giờ bà Mạc Cửu chạy nạn qua Lủng Kỳ và hạ sinh Mạc Thiên Tích”.
Theo sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang thì chùa Tam Bảo được xây dựng vào năm 1730. Thời Tao đàn Chiêu Anh các, tiếng chuông chùa là nguồn cảm hứng để Mạc Thiên Tích sáng tác bài thơ Tiêu tự thần chung. Nhưng lịch sử ngôi chùa qua nhiều thăng trầm, biến đổi nên cũng còn những điều chưa rõ.
Lịch sử chùa Sắc tứ Tam Bảo
Căn cứ bài thơ Tiêu tự thần chung của Mạc Thiên Tích, ni trưởng Như Hải, trụ trì Sắc tứ Tam Bảo, giải thích rằng “Tiêu tự” là nơi tu hành tĩnh mịch, “thần chung” là tiếng chuông thỉnh buổi sáng và suy luận ngôi chùa xưa ở sát công thự (của Tổng binh Mạc Cửu). Cách giải thích này khá gần với thông tin mà nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt cung cấp cho chúng tôi: “Thời Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, nơi ngôi chùa tọa lạc hiện nay vốn là Trấn thượng/dinh cơ của Mạc Cửu, phía sau hậu liêu ông có cất một gian phòng cho mẫu thân ông tu hành. Vào năm 1718, Hà Tiên bị quân Xiêm tấn công. Bấy giờ bà Mạc Cửu chạy nạn qua Lủng Kỳ và hạ sinh Mạc Thiên Tích”.
Thành hoàng Cao Lãnh
Đền thờ “ông Chủ”
Đền thờ “ông Chủ” tọa lạc ở số 64 đường Lê Lợi, P.2, TP.Cao Lãnh, Đồng Tháp. Đây là khu vực kinh doanh sầm uất của TP.Cao Lãnh, ngoài đền một chút là ngôi nhà lồng chợ khá quy mô. Xung quanh đền, người mua bán trái cây bày ra chật vỉa hè. Dân địa phương cho biết, ở đây ngày xưa có một chợ trái cây nằm gần mé sông, đến thời chính quyền Ngô Đình Diệm mới dời về gần đền.
Chúng tôi đến thăm vào lúc ngôi đền đang tiến hành trùng tu. Nói trùng tu chứ thật ra là phá bỏ ngôi đền cũ để tôn nền và thay đổi kiến trúc mới với quy mô hoành tráng hơn. Cổng chính ngôi đền được xây dựng từ năm Quý Mão (1963) vẫn giữ nguyên với tấm biển hiệu Đền thờ ông bà Đỗ Công Tường và hai câu đối. Toàn bộ tự khí của ngôi đền được tạm dời sang “nhà khói” để tiếp khách tham quan và cúng tế. Việc bài trí vì vậy có hơi lộn xộn, song vẫn xác định được trong gian thờ ngoài bàn thờ chính thờ ông bà Đỗ Công, còn phối tự thêm bàn thờ Quan Vân Trường và Đức Khổng Tử, nhằm mục đích đề cao Nho học và thỏa mãn đời sống tâm linh của đồng bào Việt gốc Hoa hay người Hoa sinh sống ở địa phương.
Đền thờ “ông Chủ” tọa lạc ở số 64 đường Lê Lợi, P.2, TP.Cao Lãnh, Đồng Tháp. Đây là khu vực kinh doanh sầm uất của TP.Cao Lãnh, ngoài đền một chút là ngôi nhà lồng chợ khá quy mô. Xung quanh đền, người mua bán trái cây bày ra chật vỉa hè. Dân địa phương cho biết, ở đây ngày xưa có một chợ trái cây nằm gần mé sông, đến thời chính quyền Ngô Đình Diệm mới dời về gần đền.
Chúng tôi đến thăm vào lúc ngôi đền đang tiến hành trùng tu. Nói trùng tu chứ thật ra là phá bỏ ngôi đền cũ để tôn nền và thay đổi kiến trúc mới với quy mô hoành tráng hơn. Cổng chính ngôi đền được xây dựng từ năm Quý Mão (1963) vẫn giữ nguyên với tấm biển hiệu Đền thờ ông bà Đỗ Công Tường và hai câu đối. Toàn bộ tự khí của ngôi đền được tạm dời sang “nhà khói” để tiếp khách tham quan và cúng tế. Việc bài trí vì vậy có hơi lộn xộn, song vẫn xác định được trong gian thờ ngoài bàn thờ chính thờ ông bà Đỗ Công, còn phối tự thêm bàn thờ Quan Vân Trường và Đức Khổng Tử, nhằm mục đích đề cao Nho học và thỏa mãn đời sống tâm linh của đồng bào Việt gốc Hoa hay người Hoa sinh sống ở địa phương.
Khu mộ ông bà Đỗ Công Tường - Ảnh: H.P
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)