28 thg 6, 2020

Cần Thơ có bến Ninh Kiều

Khi nói đến thành phố Cần Thơ thường gắn với cái tên Ninh Kiều giống như hai cái tên Sài Gòn và Chợ Lớn vậy. Từ xa xưa bến cảng Ninh Kiều, nơi giao lưu buôn bán của Lục tỉnh miền Tây Nam Bộ. Trong dân gian đã có câu hò trên sông Hậu Giang rằng: "Cần Thơ có bến Ninh Kiều. Có dòng sông đẹp có nhiều giai nhân. Cuộc đời luống những phù vân. Trở về bến cũ cố nhân xa rời".
Khu vườn tình yêu
Thực ra quận Ninh Kiều chính là thành phố Cần Thơ cũ nay được mở rộng tới gần 3.000 ha (theo con số thống kê vào tháng 2-2020). Bến cảng Ninh Kiều nằm trên sông Cần Thơ một phụ lưu của sông Hậu Giang. Sau khi thành phố Cần Thơ được mở mang phát triển và trực thuộc Trung ương quản lý, đường Lê Lợi đổi thành Hai Bà Trưng, nhưng tên bến cảng vẫn giữ lại theo tên quận Ninh Kiều. Hiện nay bến Ninh Kiều trở thành bến tàu du lịch và công viên văn hóa rộng tới 7.000 
m2 chạy dọc sông Cần Thơ.

Ngỡ ngàng quê Trạng

Đó là làng Bùng, một xứ quê bình yên e ấp gần dãy núi Chùa Thầy linh thiêng. Người ta kể tiến sĩ Phùng Khắc Khoan (1528-1613), một quan Trạng làng Bùng đã cho xây hai chiếc cầu Nhật Tiên và Nguyệt Tiên bên hồ Long Chiểu ở chùa Thầy (năm 1602). Đó là hai điểm nhấn về phong thủy để đem lại phúc đức tài lộc cho con cháu xứ Đoài... 

Cả đời tôi mỗi khi về quê đều phải trầm mình qua cầu vồng bụi của hai làng Bùng và Vĩnh Lộc (xã Phùng Xá-Thạch Thất-Hà Nội). Xưa làng Bùng làm nghề dệt đũi còn đỡ, nhưng nay cũng ganh đua cưa cắt sắt thép và đúc tôn ầm ầm nên bụi mịn lại càng nhiều. Một thuở các doanh nhân trẻ ở đây còn buôn cả đống xe tăng cũ để lấy thép làm công cụ nông nghiệp. Ôtô qua lại đón hàng bấm còi inh ỏi, Phùng Xá tựa một công trường khổng lồ.

Nam Nhã Đường, một danh lam xứ Cần Thơ

Di tích lịch sử cấp quốc gia Nam Nhã đường ở thành phố Cần Thơ, tọa lạc bên bờ sông Long Tuyền, đối diện với đình Bình Thủy, là một di tích không chỉ đẹp bởi kiến trúc, chữ nghĩa, hay không gian trang nhã mà còn ở những giá trị tôn giáo, lịch sử tiềm ẩn... 

Đức Tế Phật đường

Đối diện với đình Bình Thủy cổ kính, còn có tên là Long Tuyền cổ miếu, qua con sông Long Tuyền, là ngôi chùa thấp thoáng mái ngói đỏ, cây cổ thụ tỏa bóng. Cổng chính của chùa đề “Nam Nhã Đường”. Hai bên cổng có đôi câu đối, hai chữ đầu ghép thành tên chùa: “Nam địa độ nguyên nhân, bát nhã cầm thanh thông giác lộ/ Nhã đình chiêu thiện khách, bồ đề thụ ảnh cái thiền môn” (nghĩa là: Nam địa độ nguyên nhân, Bát nhã tiếng đàn thông giác lộ / Nhã đình mời thiện khách, Bồ Đề bóng mát rợp thiền môn). Cả ba cổng đều có mái, có câu đối chữ nghĩa hàm súc.

Sân chùa nhiều cây tùng, trắc bách diệp và nhiều cây cổ thụ khác, giữa sân có núi non bộ lớn và một bể trồng sen lá xanh mướt, tạo một không gian thanh tịnh. Ngôi cổ tự mặt tiền kiểu phương Tây với những vòm cong, nhưng mái chùa có lưỡng long tranh châu kiểu Đông Tây kết hợp, tấm hoành phi nền vàng, chữ đỏ trên cửa chính vào nội điện đề “Đức Tế Phật Đường”, vậy là nơi đây ngoài tên Nam Nhã, còn có tên là Đức Tế.

Thầy Thiện Đức. 

27 thg 6, 2020

Đình La Hà còn mãi với thời gian

Tọa lạc ở tổ dân phố 4, thị trấn La Hà (Tư Nghĩa), đình La Hà có tuổi đời hơn 200 năm và là nơi lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị lịch sử. Trải qua nhiều thăng trầm, đình làng này vẫn còn nét cổ kính, linh thiêng riêng.

Đình La Hà là nơi lưu giữ rất nhiều sắc phong thời nhà Nguyễn. Đến nay, những sắc phong ấy vẫn con nguyên vẹn và được gìn giữ cẩn thận. Theo người dân ở đây, những năm đầu thế kỷ XVIII, những vị tiền hiền là những cư dân vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh đến đây sinh cơ lập nghiệp. Đây cũng là khoảng thời gian mà người Việt ở Bắc Bộ di cư vào vùng đất Thuận Quảng khai hoang, mở cõi, hình thành làng, xã ở vùng đất Quảng Ngãi ngày nay, trong đó có làng La Hà. 

Với người dân tổ dân phố 4, thị trấn La Hà (Tư Nghĩa), việc giữ gìn, bảo vệ đình La Hà được xem là trách nhiệm của mọi người. 

Lưu tên lại với đời

Có rất nhiều địa danh, công trình ở nông thôn Quảng Ngãi xưa được đặt tên theo người có công lao, nghĩa hiệp với làng. Cách đặt tên đó xuất phát từ việc người xưa muốn con cháu mai sau ghi nhớ công ơn của bậc tiền nhân.

Trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết vào thời điểm những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có đoạn: “Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại/ Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương/ Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm/ Người học trò nghèo giúp Đất nước mình núi Bút, non Nghiên/ Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh/ Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. 

Chiếc cầu ván mà ông Nguyễn Thời khởi xướng xây dựng, giờ đã được thay thế bằng một cây cầu bê tông vững chãi, song người dân ở tổ dân phố 6, phường Quảng Phú gọi tên cầu là cầu ông Thời. 

Thái miếu nhà Hậu Lê - Nơi lưu giữ nhiều kiến trúc cổ độc đáo

Trải qua hàng trăm năm lịch sử, dù đã được tu sửa nhiều lần nhưng Thái miếu nhà Hậu Lê, phường Đông Vệ, TP Thanh Hóa vẫn lưu giữ những nét kiến trúc cổ độc đáo.

26 thg 6, 2020

Làng lụa Vạn Phúc – “thiên đường sống ảo” giữa lòng Hà Nội

Ghé Làng lụa Vạn Phúc( Hà Đông) vào một ngày nắng đẹp rực rỡ, du khách như thể đang lạc vào một “thiên đường sống ảo” có một khong hai giữa lòng thủ đô. 

Cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km, Làng lụa Hà Đông hay Làng lụa Vạn Phúc (thuộc phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) nổi tiếng không chỉ vì là một làng nghề dệt lụa tơ tằm trứ danh mà còn nhờ sở hữu tiềm năng du lịch to lớn. 

"Sáu xã Vạn Phước" còn mãi với thời gian

Trải qua gần 6 thế kỷ với biết bao đổi thay, thăng trầm, vậy mà cái tên làng “Sáu xã Vạn Phước” vẫn được người làng gìn giữ, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đằng sau cái tên ấy là cả một câu chuyện dài về hành trình mở đất, lập làng đầy cam go, khó nhọc của những thế hệ người đi trước.

Ngày nay, địa danh này một phần thuộc địa phận huyện Mộ Đức, một phần "nằm" ở huyện Nghĩa Hành.

Hành trình mở đất của tiền nhân

Mang trong lòng những thắc mắc, vì sao hầu hết các nhà thờ họ tại xã Đức Hòa (Mộ Đức) đều khắc dòng chữ “Sáu xã Vạn Phước”, tôi lần giở sử liệu về cái tên này và bắt gặp những thông tin được viết khá tỏ tường từ Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. 

Tên "Sáu xã Vạn Phước" vẫn còn lưu lại tại nhiều nhà thờ họ và chi phái tại hai xã Đức Hòa, Đức Phú (Mộ Đức). 

Khu di tích Quốc gia đặc biệt Đồng Khởi Bến Tre

Xã Định Thủy thuộc huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre được xem là cái “nôi” của phong trào Đồng Khởi lịch sử. Tại đây, vào ngày 17-1-1960, dưới sự chỉ huy, lãnh đạo trực tiếp của nữ tướng Nguyễn Thị Định, quân và dân xã Định Thủy đã nổi dậy, nổ phát súng đầu tiên, mở màn cho phong trào Đồng Khởi khắp miền Nam.

Từ thành phố Bến Tre theo quốc lộ 60 qua cầu Hàm Luông sang cù lao Minh về Mỏ Cày Nam; rồi từ thị trấn Mỏ Cày Nam đi khoảng 3 km trên con đường nhựa, uốn lượn, ngoằn ngoèo, xuyên qua những vườn dừa xanh um, mát rượi du khách sẽ đến trung tâm xã Định Thủy. Trước mặt UBND xã ngày nay là Khu di tích cấp quốc gia “Đồng Khởi 1960”.


Khu di tích Quốc gia đặc biệt Đồng Khởi Bến Tre

Khu di tích lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu – Bến Tre

Khu di tích lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu tọa lạc tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, từ lâu đã trở thành điểm du lịch tâm linh và là niềm tự hào của người dân Bến Tre với nhà thơ yêu nước, người thầy giáo mẫu mực, đức độ, người thầy thuốc có tâm, có tài.
Đây là một quần thế kiến trúc bề thế tọa lạc trong khuôn viên có diện tích hơn 1,5ha, được trùng tu vào năm 2000, gồm cả khu lăng mộ cũ được xây dựng vào năm 1972.Công trình bao gồm: cổng tam quan, nhà bia, đền thờ mới, đền thờ cũ và khu mộ.

Cổng tam quan khu lăng mộ mang phong cách kiến trúc truyền thống của các đình chùa Việt Nam với hai mái chồng, hình thuyền, lợp ngói âm dương màu đỏ gạch giả cổ, trên nóc và những bao lam, xiên, xà có đắp hoa văn, phù điêu ước lệ với nét dựng chân phương. Cột trụ tam quan to, vững chãi, sơn màu đỏ son.

Cổng tam quan