28 thg 1, 2013

Cây đa bến ngự và huyền tích ông Bõ

Sách Gia Định thành thông chí chép rằng: “Hồi luân tam kỳ, tục gọi là Nước Xoáy, ở địa phận thôn Tân Long, chỗ này nước chảy xoáy quanh, là đường thông suốt bốn hướng từ nơi giao hiệp của sông Tiền, sông Hậu. Năm Đinh Mùi (1787), lúc mới Trung hưng, Thế Tổ tạm đồn trú ở đây để hiệu lịnh binh tướng các lộ, giữ lấy thế chính giữa chặn lấy nơi hiểm yếu, thu được nhiều công lớn ấy là một vùng đất có hình thắng vậy...”.

Cây đa chợ Nước Xoáy...

Chợ Nước Xoáy nằm trên địa bàn ấp Hưng Mỹ Tây, xã Long Hưng A, H.Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Men dọc bờ sông Nước Xoáy ngược về hướng bắc độ hơn vài trăm thước có một ngôi miếu gọi là Cao hoàng miếu. Trước miếu có một cây đa lớn độ 5-6 người ôm, tương truyền là “cây đa bến ngự”, nơi chúa Nguyễn Ánh trong thời gian bôn đào và trú ngụ lại đây, thường ngồi câu cá. 


Cây đa trước ngôi miếu hiện vẫn còn tại xã Long Hưng A, H.Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp - Ảnh: H.P 


Sứ thần tài hoa

Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) là một danh thần thời Nguyễn Ánh mới khởi nghiệp đồ vương. Lăng mộ của ông hiện nằm trong một con hẻm nhỏ thuộc P.Trung Dũng, Biên Hòa, Đồng Nai.


Đem thân đền ơn nước

Lăng mộ nằm trong khu vực khu phố 3, tuy khuất trong khu dân cư, cạnh con hẻm nhỏ nhưng vẫn tạo được sự chú ý của người qua đường bởi quy mô hoành tráng, bề thế… Nghe nói trước năm 1975, hằng năm vào dịp lễ Thanh minh, con cháu hậu duệ của Trịnh Hoài Đức từ nhiều nơi quy tụ về cúng viếng rất trang trọng nhưng về sau không còn duy trì. 


Lăng mộ Trịnh Hoài Đức và phu nhân tại Biên Hòa, Đồng Nai - Ảnh: H.Đ.N 


Vị tiến sĩ một đời oan khuất

Trong một khu vườn tọa lạc tại ấp Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Kim, H.Châu Thành (Tiền Giang) có một ngôi mộ cổ nằm sát hàng rào lưới B40, cạnh con mương mới xẻ làm ranh giới “chống lấn chiếm”. Ngôi mộ không có mộ chí theo kiểu thông thường, chỉ có tấm bia đá hai mặt đều khắc chữ.

Theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường, đây là bài văn của cử nhân Phan Bộ Tam viết, nhằm minh oan cho người nằm dưới mộ là tiến sĩ Phan Hiển Đạo.

Dòng họ khoa bảng…

Phan Hiển Đạo sinh năm 1830, ở thôn Tân Đức Đông, H.Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Dưỡng Điềm, H.Châu Thành, Tiền Giang). Họ Phan là dòng họ khoa bảng ở chợ Thuộc Nhiêu. Cha ông là Phan Hiển Tần, đậu tam trường thời chúa Nguyễn Ánh còn ở Gia Định, ra làm quan đến chức Án sát. Đến đời Minh Mạng, không biết bị tội gì mà mất chức rồi về quê vợ ở thôn Vĩnh Kim Đông (nay là xã Vĩnh Kim) và chết trong sự ấm ức. Trên mộ bia còn ghi lại một câu đối “Quân ân bát thiên lý/Hương tình tam thập niên” (Ơn vua tám ngàn dặm/Tình quê 30 năm). 


Tấm bia ghi bài minh của cử nhân Phan Bộ Tam - Ảnh: H.P 


27 thg 1, 2013

Bí ẩn thành đá Tà Kơn

Tồn tại giữa mênh mông rừng già xã Vĩnh Sơn (H.Vĩnh Thạnh, Bình Định) hàng trăm năm qua nhưng thành đá Tà Kơn vẫn còn nhiều bí ẩn.


Truyền thuyết

Theo già làng Đinh Chương (ở làng Kon Blò, xã Vĩnh Sơn), Tà Kơn trong ngôn ngữ Ba Na có nghĩa là “chồng lên nhau”, ý muốn nói đến những hòn đá được xếp chồng lên nhau một cách rất lạ không ai hiểu được. Quá trình xây thành, giữ thành Tà Kơn được kể lại bằng hơ mon (hát kể sử thi Ba Na) đắm màu huyền thoại. Một truyền thuyết cho rằng Tà Kơn xưa kia vốn là nhà của 3 anh em, gồm 2 vị vua Trum, Trăm và nàng công chúa xinh đẹp, thông minh tên Bia Tơni.



Tường thành Tà Kơn là những phiến đá khổng lồ xếp chồng lên nhau thành hàng thẳng đứng - Ảnh: Hoàng Trọng 


Nhà thơ lưu lạc chốn quan trường

Theo sách Quốc triều hương khoa lục thì Huỳnh Mẫn Đạt người thôn Tân Hội, H.Tân Long (nay thuộc TP.HCM). Nhưng có tài liệu cho rằng ông quê ở Rạch Giá vì hiện nay ngôi mộ ông tọa lạc tại P.Vĩnh Bảo, TP.Rạch Giá, Kiên Giang. Trong khi đó thì nhà thờ dòng họ Huỳnh của ông lại ở xã Phú An, H.Cai Lậy, Tiền Giang.


Nhà thờ dòng họ Huỳnh

Xóm rạch Cây Cui nằm trên địa phận ấp 4, xã Phú An, H.Cai Lậy. Ở đây có dòng họ Huỳnh nổi danh khoa bảng, đồng thời cũng là một trong những dòng họ định cư sớm ở vùng này. Theo tài liệu lịch sử địa phương, có lẽ họ đến đây thời ông Nguyễn Văn Cối tái lập làng Phú Sơn, tức sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút 1785. Hiện ở Phú An vẫn còn địa danh rạch Ông Cối.

Nhưng họ Huỳnh hiện chỉ còn một số gia đình định cư. Trong số những người “bám trụ” lâu đời nhất có gia đình của nhà văn Minh Lộc, tức Huỳnh Công Trứ, nổi tiếng với tập truyện ngắn Giữ đất và tập truyện vừa Con đường sống đoạt giải nhất giải thưởng văn học Cửu Long hồi kháng chiến chống Pháp, năm 1951. Trên bàn thờ tổ tiên còn di ảnh của cụ Huỳnh Mẫn Thạch, một người bị chính quyền thực dân Pháp bắt đi lính sang Pháp hồi thế chiến thứ 1 (1914-1918), là cháu trực hệ của anh ruột nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt.


Gương trung hiếu của Phủ cậu Trần Xuân Hòa

Theo tài liệu lịch sử địa phương, hơn nửa thế kỷ trước, phế tích Tân Thành - Mỹ Quý (Tiền Giang), nơi quan quân nhà Nguyễn lập đồn chống Pháp, vẫn còn sót lại nền vựa kho lúa, nền vựa kho tiền, ao và hào thành, lũy tre bao bọc thành vẫn chưa bị phá hết.

Tháng 4.1861, sau khi chiếm thành Định Tường, quân viễn chinh Pháp chia lực lượng đóng đồn ở Kỳ Hôn, Rạch Gầm và Ba Rài. Triều đình Huế cử Biện lý bộ binh Đỗ Thúc Tịnh làm Tuần phủ Định Tường, Nguyễn Túc Trưng làm Khâm phái quân vụ, bổ sung thêm các quan Trương Minh Lượng, Nguyễn Nhã, Võ Duy Dương... Họ tập hợp nghĩa quân tại Tân Thành - Mỹ Quý (nay thuộc xã Nhị Quý, H.Cai Lậy, Tiền Giang), tích trữ lương thực khí giới, huấn luyện quân sĩ. Nhưng Đỗ Thúc Tịnh hy sinh khi trên đường nhận nhiệm vụ. Bấy giờ các nghĩa sĩ cử Cử nhân Trần Xuân Hòa làm Tri phủ thay thế, Thiên hộ Võ Duy Dương làm Chánh quản đạo, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân làm Phó quản đạo.

Đánh giặc, đem theo mẹ

Trần Xuân Hòa người gốc Quảng Trị, con quan Bố chánh Trần Tuyên, vào ngụ ở thôn Mỹ Thới, huyện Vĩnh Bình (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long). Xuất thân từ gia đình có truyền thống hiếu học, mẹ ông nuôi dạy hai con đều đỗ đạt: Năm Tân Sửu 1841, Trần Xuân Hòa thi đỗ Cử nhân. Năm Quý Mão 1843, người em là Trần Xuân Quang cũng thi đỗ Cử nhân, được bổ nhiệm làm quan Tri huyện. 


Đình Hữu Đạo, nơi lưu dấu huyền thoại về vị Lãnh binh Trần Từ - Ảnh: H.P 


Nhà tình báo triều Nguyễn

Trước năm 1975, Sài Gòn có đường Lê Văn Thạnh (nay đổi lại là Sư Thiện Chiếu), sau này ở Q.9, TP.HCM cũng có đường Nguyễn Văn Thạnh. 

Riêng tại TP.Mỹ Tho (Tiền Giang) hiện vẫn còn con đường mang tên Lê Văn Thạnh, nhưng cả Sài Gòn và Mỹ Tho đều ghi sai tên một nhân vật nhiều nỗi truân chuyên trong lịch sử buổi giao thời: Cử nhân Đặng Văn Thạnh.

Hoạt động bí mật

Theo bia mộ (tại xã Long Trung, H.Cai Lậy, Tiền Giang), Đặng Văn Thạnh tự là Long Phủ, sinh năm Canh Thìn (1830) tại thôn Trà Tân, H.Kiến Đăng. Phả hệ của gia đình ghi cha ông là Đặng Kiến Hưng, người gốc Quảng Ngãi, theo cha vào đây lập nghiệp từ cuối thế kỷ 18, là một trong những họ tiền hiền có công khai khẩn lập làng Trà Tân xưa.

Thời niên thiếu, Thạnh là học trò giỏi của thầy Đồ Giáo ở Giồng Vân (thôn Phú Long cùng huyện). Năm 26 tuổi, Đặng Văn Thạnh đến trường thi Gia Định ứng thí, đậu cử nhân khoa Quý Mão (1855). Sau đó ông ra kinh đô Huế thi hội, nhưng “học tài thi phận” ông bèn nộp đơn xin hậu bổ và được tuyển chọn làm chức Huấn đạo Kiến Hòa (Định Tường) trông nom việc giáo dục. Mấy năm sau, ông chuyển qua việc hành chính tại H.Phong Thạnh, tỉnh An Giang (nay là tỉnh Bạc Liêu). Đầu tiên ông giữ chức Kinh lịch, thăng Thông phán rồi thăng Tri huyện Phong Thạnh.

26 thg 1, 2013

Thăm chùa Phù Dung nhớ Xuân Tự - Thanh Nga…


Về Hà Tiên ghé thăm lăng tẩm họ Mạc, thấy mộ phần Mạc Thiên Tích, ghé chùa Phù Dung lại nhớ đến mối tình đẹp của ông và nàng Xuân Tự, hình ảnh Thanh Nga- Xuân Tự đẹp dịu dàng chợt hiện ra.


Chùa Phù Dung hiện tọa lạc tại chân núi Bình San, phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Địa điểm hành hương & du lịch này hấp dẫn du khách bởi vẻ đẹp cổ kính, hài hòa với thiên nhiên mà còn bởi những câu chuyện bí ẩn về ngôi mộ của người trụ trì đầu tiên..

Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà: Thiên tình sử nước Nam

Trong văn học nước Nam, có những chuyện tình có gốc tích Trung Quốc nhưng vì đã quá thân thuộc nên dân ta có cảm giác là của nước mình, như Kim trọng – Thúy Kiều, Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga. Nhưng cũng có trường hợp thiên tình sử rất đẹp của nước Nam, nhưng lại bị tưởng là của Trung Quốc. Người mộ điệu cải lương nào mà không biết bài ca cổ “Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà” của soạn giả Viễn Châu.

Cách đây hơn 40 năm, khi bắt đầu biết đọc chữ, tôi đã dùng mấy đồng tiền ăn quà để mua tờ giấy in bài ca cổ này bày bán trên nền chợ trước trường học. Tôi đã thuộc lòng và thỉnh thoảng lại hát bài ca nói về chuyện tình lãng mạn và bi tráng đẹp như cổ tích của Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà. Thế nhưng, tôi cũng như nhiều người mộ điệu cải lương, cứ lầm tưởng đây là tích truyện Tàu nào đó thuộc đời Tống, đời Đường, giống như  Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Lữ Bố - Điêu Thuyền, Phạm Lãi – Tây Thi…Cho tới một lần, tôi về thị xã Gò Công (tỉnh Tiền Giang), ghé thăm miếu thờ Võ Tánh, người đã phò chúa Nguyễn Ánh gầy dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyễn, và thú vị biết rằng câu chuyện Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà là của dân mình, rất gần gũi với đất Nam bộ quê tôi.
 

 Về Gò Công nghe chuyện Võ Đông Sơ

Từ thành phố Mỹ Tho (Tiền Giang) đi về phía biển gần 40 cây số là tới thị xã Gò Công, vùng đất đã từng cống hiến cho triều Nguyễn 2 bà hoàng hậu là bà Từ Dũ và Nam Phương Hoàng Hậu. Tiếp tục đi về hướng biển thêm khoảng 5 cây số là đến ấp Gò Tre – xã Long Thuận – thị xã Gò Công. Đây là vùng đất nổi tiếng với trái sơ ri. Bên con đường nhựa nhiều xe cộ qua lại, cạnh gốc cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, giữa khu vườn cây dại mọc um tùm là ngôi cổ miếu nhỏ dột nát, rêu phong, trên tấm biển ghi: Di tích Văn hóa Lịch sử cấp tỉnh – Miếu thờ Hoài Quốc Công Võ Tánh, thân sinh của chàng trai Võ Đông Sơ trong câu chuyện tình nói trên.



Xe lửa qua phà

Xe lửa làm sao mà qua phà được?


Tại sao xe lửa lại phải qua phà?

Chuyện tưởng như bịa này hóa ra lại có thật 100%, mà bức ảnh sau chính là minh họa rõ nét nhất.

(Ảnh được trích từ website www.daumaytoaxe.com

Tuyến đường sắt đầu tiên của Việt Nam là tuyến Sài Gòn - Mỹ Tho. Chuyến tàu đầu tiên của tuyến đường sắt này là sáng 20-7-1885. Tàu xuất phát từ ga Sài Gòn, vượt sông Vàm Cỏ Ðông bằng phà tại Bến Lức, đến ga cuối cùng tại trung tâm thành phố Mỹ Tho.