10 thg 9, 2020

Nhà khoa bảng Vũ Khâm Lân không a dua

Tiến sĩ Vũ Khâm Lân có nhiều công lao với nước, với dân, được triều đình phong kiến nhà Lê ban tặng nhiều sắc phong. 

Sắc phong cho Tiến sĩ Vũ Khâm Lâm ngày 6 tháng 10 năm Cảnh Hưng 7 (1746) 

Vũ Khâm Lân hiệu là Di Trai, quê xã Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ (nay là thôn Ngọc Lặc, xã Ngọc Sơn, TP Hải Dương). Ông sinh năm Quý Mùi (1703), trước có tên là Vũ Khâm Thận, sau đổi là Vũ Khâm Lân. Sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ Vũ Khâm Lân sớm có tư chất thông minh hơn người.

Tại khoa thi năm Đinh Mùi, niên hiệu Bảo Thái 8 (1727), đời vua Lê Dụ Tông, Vũ Khâm Lân đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Kể từ đó, ông bước vào chốn quan trường, giữ chức quan Cấp sự trung, làm việc ở các Khoa (là cơ quan trực thuộc bộ, mỗi bộ có một khoa mang tên của Bộ mình như Lễ Khoa, Bộ Khoa, Hình Khoa...), hàm Tòng lục phẩm, sau đó được điều chuyển Giám sát Ngự sử đạo Sơn Nam (1734).

Một thời gian sau, diễn biến chính trị - xã hội ở Đàng Ngoài vô cùng phức tạp, rối ren, dẫn đến các cuộc nổi dậy của nông dân. Một lực lượng nổi dậy khác do nhóm quý tộc nhà Lê, đứng đầu là Lê Duy Mật cũng nổi dậy ở miền núi Thanh Hoá, Ninh Bình hay cuộc nổi dậy của Nguyễn Hữu Cầu ở xứ Đông khiến triều đình Lê - Trịnh phải điều quân đánh dẹp rất vất vả.

Từ năm 1739, để đối phó với phong trào nổi dậy của nhân dân diễn ra ở nhiều địa phương Đàng Ngoài, triều đình Lê - Trịnh đã điều động phần lớn quan lại (kể cả các bậc đại khoa) và quân lính tham gia trấn áp. Trong thời gian này, Vũ Khâm Lân được bổ nhiệm, thuyên chuyển, kiêm giữ nhiều chức vụ hoặc làm các công việc có liên quan đến việc quân.

Năm 1746, Vũ Khâm Lân được thăng chức Hữu Thị lang Bộ Lại, ban tước Hầu. Cũng trong năm này, Vũ Khâm Lân được thăng làm Tham tụng ở Phủ đường (phủ chúa Trịnh). Ở triều, ông dự bàn chính sự, ra ngoài giữ việc binh cơ, lập không ít công lao, được cử đi sứ nhà Thanh. Do hoàn thành sứ mệnh được giao, năm 1756, ông được thăng chức Bồi tụng Đô ngự sử (chức quan đứng đầu Ngự sử đài), tước Quận công.

Đương thời, Vũ Khâm Lân có tiếng là người hào hiệp, khẳng khái, không câu thúc, gặp việc dám nói, dám làm, không a dua kẻ quyền quý. Bởi vậy, ông bị những người giữ chức vụ thời bấy giờ ganh ghét. Có thời gian ông đang giữ chức Hữu Thị lang Bộ Lại thì bị giáng, mãi sau mới được thăng chức nói trên.

Bên cạnh đó, Vũ Khâm Lân còn có tiếng về tài văn chương. Ông đã góp thêm nhiều truyện mới vào cuốn Lĩnh Nam chích quái, soạn và cho khắc bia bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký nói về cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm (để dựng ở đền thờ vị danh sĩ này), viết bài khen Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ...

Vũ Khâm Lân mất ngày 20.8 âm lịch, không rõ năm. Triều đình truy tặng ông chức Thượng thư Bộ binh (chức quan đứng đầu Bộ binh), ban tên thụy là Mẫn Đạt, hiệu là Di Trai. Con ông là Vũ Cơ ((1736 - ?) cũng đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng 24 (1763), làm quan tới chức Hàn lâm viện hiệu lý, trấn thủ Lạng Sơn.

Theo các cụ cao niên trong dòng họ, tại cánh đồng làng Ngọc Lặc xưa có một gò đất cao giáp với đầu làng Mỗ Đoạn (nay thuộc xã Đại Sơn, huyện Tứ Kỳ) gọi là đống Quan Lặc. Vì sao gọi là đống Quan Lặc thì không ai biết rõ, chỉ tương truyền rằng đây là nơi an táng của một vị quan nên được gọi là đống Quan, còn Lặc là cách gọi ghép tên làng.

Năm 1953, thực dân Pháp đóng bốt Bỉnh Di, đống Quan Lặc cách bốt khoảng 50 m. Để thuận tiện cho việc quan sát và tránh bị Việt Minh ẩn nấp tấn công, quân giặc đã san phẳng khu vực đống Quan Lặc.

Vào năm 1987, gia đình bà Thao ở thôn Mỗ Đoạn (cách khu vực đống Quan Lặc xưa khoảng 200 m) đào ao. Trong quá trình thi công, thợ lái máy xúc đã đào thấy một số mảnh quan tài, một phần thi hài và một số đồ tùy tùng kèm theo (chỉ còn mảnh vỡ) cùng một tấm bia đá. Sau khi nhờ người dịch biết là của cụ Tiến sĩ Vũ Khâm Lân, gia đình bà Thao đã liên hệ với ông trưởng tộc dòng họ Vũ ở làng Ngọc Lặc. Đại diện dòng họ đã xin chuyển toàn bộ phần mộ về an táng cùng các cụ tổ của dòng họ Vũ tại nghĩa trang của thôn. Tấm bia đá dựng ốp vào tường trên phần mộ. Trên bia có khoảng 70 chữ (một số chữ đã bị mờ), có nội dung: “Triều Lê, Tiến sĩ khoa Đinh Mùi (1727) - Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Nhập thị tham tòng phụng Chánh sứ ngự sử, Đài đô ngự sử, kiêm Tả chánh ngôn Quốc sử Tổng tài Ôn Quận công, được phong tặng làm Binh bộ Thượng thư, ban tên Thụy là Mẫn Đạt Vũ Tướng quốc, hiệu Di Trai tiên sinh; mộ táng tại Quan Sơn, xã Bỉnh Di...”. Năm 2001, khu lăng mộ được con cháu trong dòng họ tôn tạo lại khang trang.

Do có nhiều công lao với nước, với dân, Tiến sĩ Vũ Khâm Lân được triều đình phong kiến nhà Lê ban tặng nhiều sắc phong vào các năm: Long Đức 3 (1734), Cảnh Hưng 7 (1746), Cảnh Hưng 17 (1756) và Cảnh Hưng 19 (1758).

Ngày nay, trên quê hương Ngọc Lặc vẫn còn nhà thờ tự của ông với lối kiến trúc gỗ độc đáo, bia ký, đại tự, câu đối và nhiều đồ thờ tự cổ có giá trị, đặc biệt là 19 đạo sắc phong. Trong số các sắc phong này, ngoài sắc phong cho Tiến sĩ Vũ Khâm Lân còn sắc phong cho những nhân vật có liên quan đến tiến sĩ như Vũ Đình Hiệp (ông nội), Nguyễn Thị Tháp (bà nội), Vũ Lượng Công (thân phụ), Đoàn Thị Liêu (thân mẫu), Đặng Thị Trị (chánh phu nhân), Nguyễn Thị Bính (kế phu nhân) và Vũ Cơ (con trai). Đây là những tư liệu khoa học quý giá khi tìm hiểu về Tiến sĩ Vũ Khâm Lân cũng như những nhân vật có liên quan đến vị tiến sĩ mà tên tuổi, sự nghiệp của ông đã được sử sách lưu truyền, nhân dân ngưỡng mộ, dòng họ được vang danh.

Hằng năm, cứ vào ngày 20.8 âm lịch, tại nhà thờ con cháu trong dòng họ lại tổ chức cúng giỗ tưởng nhớ tới công ơn tiền nhân và không ngừng phấn đấu noi gương ông, góp phần rạng danh tiên tổ.

ĐẶNG THU THƠM

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét