8 thg 9, 2020

Độc đáo đình cổ Lãng Xuyên

Ở huyện Gia Lộc không nhiều ngôi đình còn giữ được nguyên vẹn kiến trúc đình cổ mang nét đặc trưng của vùng Bắc Bộ như ngôi đình này. 

Đình Lãng Xuyên đã được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2005 

Đình Lãng Xuyên ở thôn Lãng Xuyên, xã Gia Tân (Gia Lộc) tọa lạc trên khu đất cao ráo, thoáng đãng, phía trước là giếng nước trồng sen ngay ở đầu làng.

Chạm khắc tinh xảo

Theo thần phả còn lưu giữ tại đây, đình Lãng Xuyên được xây dựng vào thời Nguyễn và trùng tu nhiều lần. Trải qua biến cố thời gian, đến nay công trình vẫn giữ được nét kiến trúc nghệ thuật cổ xưa.

Đình có kiến trúc kiểu chữ đinh, bao gồm tòa đại bái 5 gian và hậu cung 4 gian. Tòa đại bái có giá trị nghệ thuật cao với kiến trúc kiểu đao tàu déo góc. Kết cấu chính gồm hai phần là mộc và nề ngõa, mang đậm nét kiến trúc thời Nguyễn. Phần mái có 4 vì kèo, trong đó 2 vì kèo gian trung tâm có kiến trúc kiểu chồng giá chiêng, hai vì kèo gian bên có kiến trúc kiểu chồng giường. 4 vì kèo có kích thước khá lớn, các cột cái bằng gỗ lim có đường kính 48 cm, cột quân có đường kính 38 cm.

Đặc biệt, hệ thống hoành được bố trí theo lối “Thượng tứ hạ ngũ” khá chắc chắn. Thượng lương (chồng nóc) chắc khỏe và được soi chỉ kép nghệ thuật. Hệ thống đấu tạo dáng như những bông sen nở. Chất liệu của công trình chủ yếu là gỗ lim còn tốt. Tòa đại bái còn lưu giữ nhiều mảng chạm khắc đạt trình độ nghệ thuật cao mang đậm nét kiến trúc truyền thống, thể hiện nét tài hoa của nghệ nhân xưa như các bẩy hiên chạm các bức “cúc hóa long”, “trúc hóa long”, “lá lật”... đường nét rất mềm mại sống động. Nghệ thuật chạm bong của nghệ nhân xưa còn thể hiện ở các bức chạm “độc long”, “lá lật liên hoàn” hoặc “lá lật xen kẽ” các con rồng nhìn rất sống động hay “rồng hút cá chép” theo tích “ngư long hý thuỷ” khá sinh động. Có đầu dư chạm một con rồng hoàn chỉnh, có đầu dư lại chạm đầu rồng đuôi chim phượng... Các bức chạm trên các chi tiết của 4 vì kèo chính tòa đại bái là tập hợp nhiều mảng chạm khắc dân gian thể hiện thần quyền trong tín ngưỡng, ngoài ra các bức chạm này còn mô tả cỏ cây, hoa lá gần gũi trong sinh hoạt đời thường của người nông dân. Những bức chạm còn lưu giữ được là những tiêu bản rất quý báu giúp khôi phục các công trình cùng thời. Phía ngoài là 4 đầu đao cong vút, đắp “rồng chầu phượng mớm”. Nóc đình đắp “lưỡng long chầu nguyệt”. 2 đầu nóc là 2 con kìm. Các nghệ nhân đã tạo ra những linh vật khá độc đáo, tạo thế uy nghiêm cho công trình.

Tòa hậu cung nối liền với tòa đại bái gồm 4 gian. Hậu cung có một số bức chạm “lá lật” và “độc long” khá đẹp, chất liệu bằng gỗ lim. Móng và tường xây dáng quay chảo mềm mại với những đường gờ chỉ kép, mái lợp ngói vẩy cá truyền thống. Đình còn lưu lại nhiều cổ vật quý từ thời Nguyễn như đồ gỗ có các bức đại tự, câu đối, cuốn thư, ngai thờ, mâm thờ, sập thờ; đồ đá có bia thần tích, bia hậu thần; chuông đồng đúc năm 1933…

Cụ Nguyễn Đức Nội (85 tuổi) ở thôn Lãng Xuyên cho biết theo thần tích, đình thờ Thành hoàng làng hiệu là Ngọc Thị Quỳnh Lang công chúa (thiên thần). Theo phả ký, Ngọc Thị Quỳnh Lang công chúa có công âm phù Hai Bà Trưng trong khi lập đàn ở cửa sông Hát Môn. Sau khi đánh thắng Tô Định, Hai Bà Trưng thấy ứng nghiệm, phong cho bà là Hoa Hùng Uyển Mỵ chinh thục phu nhân thượng đẳng thần, nhân dân lấy sự tích này tôn thờ làm Thành hoàng làng.

Hằng năm, đình mở hội vào ngày 12.10 âm lịch và 15 tháng giêng. Kỳ lễ hội tháng giêng là lớn nhất trong năm. Lễ hội tháng 10 âm lịch là kỷ niệm ngày Thành hoàng âm phù Hai Bà Trưng đánh giặc. Lễ hội này chủ yếu là tế lễ.

Nhân dân phát tâm công đức

Với những nét độc đáo, những giá trị còn lưu giữ, năm 2005, đình Lãng Xuyên được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Trong những năm gần đây, chính quyền và nhân dân địa phương đã góp công, góp của để trùng tu tôn tạo, mở rộng không gian của di tích, góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa của địa phương.

Ông Nguyễn Văn Kênh, Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn Lãng Xuyên cho biết trong suốt thời gian từ năm 2000-2009, đình bị xuống cấp trầm trọng. Toàn bộ phần nóc, rui, mè bị mối mọt, ngói xô lệch nên cứ mưa là dột, tường đình bị nứt, một số linh vật phía ngoài và mảng chạm khắc bị hư hỏng, bong tróc, một số chân cột đình bị mối mọt…

Năm 2009, được Nhà nước cho phép, cùng sự tích cực tham gia đóng góp của nhân dân, đình đã được trùng tu lớn. Toàn bộ phần nóc được làm mới, mái ngói được thay mới, chỉ giữ lại ngói cũ ở mái trước gian đại bái; phục dựng lại các cấu kiện gỗ, các mảng phù điêu bị bong tróc, đắp lại một số linh vật… với tổng kinh phí khoảng 700 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp 600 triệu đồng.

Lần trùng tu lớn thứ 2 là năm 2016, nhân dân và con em xa quê đã đóng góp kinh phí mua lại phần đất của người dân để mở rộng diện tích đình từ 300 m2 ra hơn 1.000 m2 và tôn tạo lại giếng làng, san lấp, tôn nền lát gạch sân, xây sân khấu… với tổng kinh phí hơn 1 tỷ đồng. Hiện, ngôi đình có không gian rộng rãi, thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội và các sự kiện của làng, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân.

THẾ ANH

Ngắm những cung đường đẹp như mơ trên đỉnh Trường Lệ

Mang trong mình vẻ đẹp hoang sơ, lãng mạn, dãy núi Trường Lệ (TP Sầm Sơn) còn làm xao xuyến biết bao tâm hồn du khách bởi những cung đường quanh co, uốn lượn.

Tên núi Trường Lệ gắn liền với câu truyện thần thoại. Truyện kể rằng: Tại ngọn núi này xưa kia có một người phụ nữ đã qua đời sau khi sinh con, cậu bé có khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, lớn nhanh như thổi, sức khỏe phi thường. Thương mẹ, chú bé nhặt đất đá đắp lên thi hài mẹ để nấm mồ lớn dần thành Núi Trường Lệ. Cậu bé đó trưởng thành trở thành một tràng trai khổng lồ, dũng cảm cùng nhân dân làng chài đánh tan loài quỷ biển, về sau trở thành thần Độc Cước, được nhân dân tôn kính và xây dựng đền thờ để tỏ lòng biết ơn.

Lễ Đại kỳ phước - nét đẹp văn hóa cổ truyền

 Khu di tích đền Cao (phường An Lạc, Chí Linh) nổi tiếng với nhiều sự lệ đặc sắc mang đậm nét sinh hoạt văn hóa cổ truyền của cư dân đồng bằng Bắc Bộ, trong đó phải kể đến lễ hội Đại kỳ phước. 


Lễ hội Đại kỳ phước tại khu di tích đền Cao 

Khu di tích lịch sử-văn hóa quốc gia đền Cao gồm 4 ngôi đền và 1 ngôi đình được xây dựng trên nhiều vị trí khác nhau trong không gian rộng gần 1 km2 thuộc phường An Lạc (Chí Linh).

Theo sách “Hải Dương di tích và danh thắng tập 1” của Sở Văn hóa - Thông tin Hải Dương (xuất bản năm 1999), khu di tích đền Cao thờ 5 vị tướng quân họ Vương có công giúp vua Lê Đại Hành đánh quân Tống xâm lược vào thế kỷ X.

Trong đó, đền Cao thờ tướng Vương Đức Minh, đền Cả thờ hai người chị cả Vương Thị Đào và Vương Thị Liễu, đền Bến Tràng thờ tướng Vương Đức Xuân và tướng Vương Đức Hồng. 

Khu di tích nổi tiếng với nhiều sự lệ đặc sắc mang đậm nét sinh hoạt văn hóa cổ truyền của cư dân đồng bằng Bắc Bộ, trong đó phải kể đến lễ Đại kỳ phước. Nghi lễ này được tổ chức vào ngày 26.10 âm lịch hằng năm tại đình Lạc Đạo với ý nghĩa kỷ niệm ngày sinh của 5 vị tướng họ Vương và cầu xin Thành hoàng làng, các thánh ban phước lộc đến cho nhân dân trong khu dân cư. Buổi lễ có nghi thức tế và dâng hương các vị thánh. 

7 thg 9, 2020

Cuối năm đi chợ Na Mèo - Nậm Xôi

Khi công việc nương rẫy đã xong và cây mận, cây đào đã nở là lúc báo hiệu mùa Xuân đã về. Người dân miền biên viễn Na Mèo – Nậm Xôi lại cùng nhau đi phiên chợ cuối cùng của năm để sắm tết và gặp gỡ bạn bè.

Chợ phiên Na Mèo (Quan Sơn, Thanh Hóa) và chợ Nậm Xôi (Viêng Xay, Hủa Phăn, Lào) họp cùng một thời điểm vào sáng thứ 7 hàng tuần.

Di tích Đồn Rạch Cát – Pháo Đài Rạch Cát – Long An

Đồn Rạch Cát còn gọi là đồn Rạch Cốc tọa lạc tại xã Long Hựu Đông, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Pháo đài quân sự được thực dân Pháp xây dựng rất đồ sộ vào năm 1903 là pháo đài phòng thủ ven biển kiên cố, kiến trúc độc đáo có vị trí chiến lược trong phòng thủ cũng như trong tiến công. Có thể chống các loại đạn pháo hạng nặng; lại được trang bị các loại trọng pháo hiện đại nhất ở đầu thế kỷ XX. 

Toàn cảnh đồn Rạch Cát – Ảnh: Quang Định 

Để bảo vệ Sài Gòn – thủ phủ của lục tỉnh Nam kỳ, trước sự dòm ngó của các cường quốc phương Tây cũng như các lực lượng từ bên ngoài theo đường thủy vào giúp Việt Nam. Năm 1902, thực dân Pháp cho người đến thám sát thực địa, thiết kế lập pháo đài ở đây vì thấy qua pháo đài này kiểm soát được cả 3 con sông lớn là Rạch Cát, Vàm Cỏ và Nhà Bè.

Trước đó có thông tin, thực dân Pháp cũng khảo sát một số địa điểm khác nhưng chưa tìm ra vị trí “chiến lược”. Khi thấy địa hình và đặc biệt là vị trí chiến lược của Rạch Cát, thực dân Pháp đã cho triển khai xây dựng pháo đài tầm cỡ khu vực Đông Dương để trấn ải tại đây.

Do đây là vùng sình lầy, nền đất yếu nên việc xử lý nền móng mất nhiều thời gian, đến năm 1903 đại công trình này mới chính thức khởi công. Họ cho tàu chở nguyên vật liệu từ nơi khác về, kể cả từ Sài Gòn – Chợ Lớn. Riêng các trang thiết bị thì vận chuyển từ Pháp sang. Ngay sau đó xảy ra trận bão năm 1904 cuốn trôi hết vật liệu ra sông, ra biển.

Năm 1905, thực dân Pháp gom dân 2 huyện Cần Giuộc, Cần Đước đến đây chịu cảnh ăn đói mặc rét, ngày đêm lao động khổ sai đào móng đóng cừ, đào nền (diện tích 3.000m2) sâu hàng chục mét dưới lòng đất để xây 4 tầng ngầm (ngang 100m, dọc 300m). Xung quanh đồn có tường rào kiên cố với chu vi 11.988m; hào nước rộng để đề phòng sự dột nhập từ bên ngoài. Pháp còn cho xây một cầu tàu và đường ray để vận chuyển đồ trực tiếp từ bến cửa sông Rạch Cát vào đồn. Việc xây đồn kéo dài suốt 5-6 năm sau mới xong. Theo tài liệu của Pháp, chi phí xây dựng pháo đài khoảng 7 triệu francs thời ấy, cao gấp 3,5 lần chi phí xây dựng Nhà hát lớn Hà Nội (2 triệu francs). Người Pháp gọi đây là “Hệ thống phòng thủ các con sông và Cap Saint-Jacques”. 

Khám phá Cồn Ông Trang – Cà Mau

Cồn Ông Trang là cồn cát pha lẫn phù sa, nhô lên giữa cửa sông Cửa Lớn thuộc phân Khu du lịch Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau. Cồn Ông Trang nổi bật với những cồn cát được cây mắm bao phủ một màu xanh bạt ngàn, trông xa như những bức tranh thủy mặc giữa một vùng sông nước bao la. Đây là nơi duy nhất có hai cồn và trở thành điểm đến thú vị cho những ai muốn khám phá vùng đất bãi bồi rộng lớn nơi cực Nam Tổ quốc. 


Xuất phát từ trung tâm huyện Năm Căn, qua cầu Năm Căn rẽ phải, theo con lộ cấp 6 đồng bằng, chưa quá 20 phút đi xe là đến trung tâm xã Viên An (huyện Ngọc Hiển). Từ đây, du khách đi vỏ lãi thêm 15 phút trên cửa sông Cửa Lớn (theo hướng tây) sẽ thấy ngay cồn Ông Trang nhấp nhô sóng biển, xanh xanh giữa mây trời. 

Di tích lịch sử quốc gia Nhà Dây Thép – Cà Mau

Mỗi khi nhắc đến những chiến thắng hào hùng của quân và dân Cà Mau thì không thể không nhớ đến vai trò liên lạc của Nhà Dây Thép trong cuộc chiến giành độc lập cho dân tộc. Di tích lịch sử Nhà Dây Thép nằm ở vị trí trung tâm thành phố, tọa lạc tại góc đường Lê Lợi – Lý Bôn, khóm 3, phường 2, thành phố Cà Mau. 

Đình Vĩnh Nguơn An Giang – Di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia

Châu Đốc là vùng đất “tân cương biên trấn” có 4 dân tộc Kinh- Hoa- Chăm- Khmer cùng sinh sống, tạo nên văn hóa đa dạng đặc sắc. Nơi đây có rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia, nhiều lễ hội mang đậm yếu tố tâm linh, trong đó không thể không nhắc đến Đình thần Vĩnh Ngươn.

Đình Vĩnh Nguơn tọa lạc trên ở điểm giao nhau giữa sông Hậu và nơi khởi đầu của dòng kênh Vĩnh Tế thành một ngã ba mênh mông sóng nước, thuộc phường Vĩnh Ngươn, Thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. 

Đình Vĩnh Nguơn nằm bên bờ sông tuyệt đẹp 

6 thg 9, 2020

Độc đáo nghi lễ Then “pang” của người Tày

Một ngày đầu tháng 7, chúng tôi có dịp đến thôn Lập Thành, xã Làng Giàng, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, tham dự nghi lễ Then “pang” cho bà Hoàng Thị Lả, năm nay đã ngoài 70 tuổi. Nghi lễ được diễn ra 3 ngày 2 đêm trong không gian văn hóa nhà sàn của người Tày ở xã Làng Giàng còn gọi là “đại pang”. Then “pang” là nghi lễ độc đáo của dân tộc Tày nằm trong thực hành Then của các dân tộc Tày, Nùng, Thái của Việt Nam đã được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại. 

Không chính thức hành lễ, được mời tham dự, thầy Then nổi tiếng trong cộng đồng người Tày ở đất Văn Bàn - Chu Hồng Phương cho biết: Đây là nghi lễ cấp sắc cho thầy Then nhưng ở bậc dưới thầy then, tiếng Tày còn gọi là thầy “mất”, để phân ngôi thứ bậc trong các thầy then… Thầy Then hát then với đàn tính, còn thầy mất hát then theo khèn và pí lào (sáo lào). Trong di sản Then có rất nhiều nghi lễ thể hiện nét văn hóa truyền thống độc đáo rất riêng của đồng bào Tày, trong đó có nghi lễ Then “pang” hay còn gọi là “lẩu pang”. Then là câu chuyện kể không có hồi kết thông qua lời hát của thầy Then, thầy mất. Thế nên nghi lễ diễn ra, người làm Then hát cả đêm không hết, bao giờ hát xin được vía mới thôi… 

Bà Hoàng Thị Lả hát mời quan xuống chứng giám lễ pang. 

Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư và 2 di tích

Trần Khánh Dư (?-1339), người huyện Chí Linh (nay là TP Chí Linh), là tôn thất nhà Trần, con của thượng tướng Trần Phó Duyệt. Ông đã lập nhiều công lao to lớn trong 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (thế kỷ 13). 

Đền Gốm ở khu dân cư Linh Giàng, phường Cổ Thành (TP Chí Linh) 

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất năm 1258, Trần Khánh Dư đã giúp vua Trần Thái Tông đánh thắng trong trận quyết chiến chiến lược ở Đông Bộ Đầu. Sau trận này, quân Nguyên Mông bị đánh bật khỏi kinh thành, phải rút quân về nước. Trần Khánh Dư được vua khen là người có trí lược và phong là Thiên tử nghĩa nam. Ít lâu sau, do ông phạm tội nên bị triều đình cách chức trở về quê làm nghề chèo đò bán than.

Năm 1282, trước nguy cơ xâm lược của quân Nguyên Mông lần thứ hai, vua Trần họp Hội nghị Bình Than (ở vùng Trần Xá, nay thuộc thôn Trần Xá, xã Nam Hưng, Nam Sách) lấy ý kiến vương hầu, bách quan bàn kế đánh giặc. Dịp này, vua Trần tình cờ gặp Trần Khánh Dư chèo thuyền chở than qua bến Nhạn Loan trong cảnh "nón lá, áo tơi". Vua cho mời ông tới và phục lại các chức cũ, cho cùng dự bàn kế sách giữ nước và phong chức Phó tướng Đô quân. Sau khi dẹp tan giặc, ông lại được phong tước hầu.

Năm 1288, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ ba, Trần Khánh Dư được cử chỉ huy đạo quân phòng giữ vùng biển Đông Bắc. Tại đây, ông cùng quân lính đánh thắng trận Vân Đồn, tiêu diệt hơn 500 chiến thuyền lương của Trương Văn Hổ, góp phần quan trọng để cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần ba sớm kết thúc thắng lợi. Với cống hiến to lớn trong suốt 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Trần Khánh Dư đã được vua Trần phong tước Nhân Huệ vương.

Cuối đời, Trần Khánh Dư về sống tại Thái ấp sinh từ gần Nhạn Loan cổ độ (nay thuộc khu dân cư Linh Giàng, phường Cổ Thành, TP Chí Linh) là nơi giao thông đường thuỷ phát triển, nhân dân địa phương buôn bán và sản suất đồ gốm. Ông thường động viên nhân dân ở đây tích cực sản xuất nên kinh tế địa phương tương đối phát triển. Tên thôn Linh Giàng xưa còn có tên gọi là làng Gốm.

Sau khi Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư qua đời (năm 1339), nhân dân địa phương đã xây dựng đền thờ ông tại đầu làng Gốm bên bờ sông Kinh Thầy lấy tên “Nhân Huệ vương từ” để tưởng nhớ công lao của ông với quê hương, đất nước.

Như vậy, ngôi đền có thể được xây dựng vào thế kỷ 14 trên đất khu dân cư Linh Giàng. Trải qua những năm tháng lịch sử, di tích đền Gốm đã nhiều lần được trùng tu tôn tạo vào thế kỷ 17, 18. Cuối thế kỷ 19, đền bị thực dân Pháp phá dỡ. Năm 1933, nhân dân thập phương công đức trùng tu lại toàn bộ ngôi đền với kết cấu kiến trúc gồm 3 lớp nhà kiểu chữ Đinh gồm 5 gian đại bái, 5 gian trung từ và 3 gian hậu cung.

Đền được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia năm 1994. Năm 2019, được sự quan tâm của Nhà nước và tâm sức của nhân dân địa phương, ngôi đền đã được tu bổ, tôn tạo khang trang như hiện nay theo lối kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm 5 gian tiền tế, 3 gian hậu cung, kết cấu chủ yếu bằng bê tông cốt thép, mái và cửa bằng gỗ tứ thiết.

Không chỉ có làng Gốm thờ Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, ở bên kia tả ngạn sông Kinh Thầy, làng Linh Xá, xã Nam Hưng (Nam Sách) cũng thờ ông tại đình. Tương truyền làng Linh Xá trước kia có tên là xóm Nguyễn. Mới đầu nơi đây chỉ có vài hộ dân sinh sống.

Qua thăng trầm của lịch sử, người dân xóm Nguyễn phiêu bạt, rồi lại trở về sinh cơ lập nghiệp, phát triển đông đúc. Sau đó, xóm Nguyễn được sáp nhập với làng Gốm. Vào thời Nguyễn năm Tự Đức thứ tư (1851), xóm Nguyễn lại tách ra và đổi tên thành làng Linh Xá. Trong thời gian này, nhân dân xây dựng đình và đưa Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư vào thờ tự cùng với 2 vị thành hoàng của làng là Phúc Hộ Uy Minh và Bản Lộ Đô thống. Năm 1963, đình bị hạ giải chỉ để lại 3 gian hậu cung phía sau. Năm 1976, đình bị phá hủy hoàn toàn, các cổ vật bị thất lạc. Năm 1993, nhân dân khôi phục một gian hậu cung để thờ cúng các vị thành hoàng làng. Năm 2000, đình được xây lại hoàn toàn như hiện nay trên nền đình cũ với kiến trúc kiểu chữ Nhị gồm 5 gian đại bái và 3 gian hậu cung.

Hằng năm, hai làng đều tổ chức lễ hội để tướng nhớ Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư. Đền Gốm tổ chức lễ hội vào dịp mùa thu từ ngày 13 - 21.8 âm lịch, trọng hội là ngày rằm tháng 8 - tưởng niệm ngày mất của ông. Trong lễ hội có tổ chức lễ tế, rước nước, bơi chải... thu hút hàng vạn người từ nhiều địa phương trở về.

Đình Linh Xá tổ chức lễ hội hằng năm vào mùa xuân từ ngày 13-15.2 âm lịch, trọng hội là ngày rằm tháng 2 - tương truyền kỷ niệm ngày sinh của ông. Trong lễ hội có tổ chức tế, dâng hương, rước sắc Trần Khánh Dư lên bờ sông Kinh Thầy nhìn sang đền Gốm làm lễ bái vọng rồi lại rước về đình. Ngoài ra, trong các ngày hội dân làng còn tổ chức hát quan họ trên thuyền, các trò chơi dân gian như chọi gà, cướp cờ, kéo co, ném cổ chai...

THẬP NHẤT