Đám cưới tiếng Chăm là Đam Likhah hay Đam Bbang mưnhum, tổ chức vào các tháng 3, 6, 10 và 11 Chăm lịch (kém tháng dương lịch 2 tháng). Cưới vào ngày chẵn hạ tuần thuộc Mẹ (âm): 2, 4, 6, 8, 10, 12 và 14 Chăm lịch.
Người Chăm cưới hỏi theo chế độ mẫu hệ, nên gái hỏi chồng, và người con trai theo về nhà gái. Người Chăm có 3 tôn giáo chính: Bà-la-môn, Bàni và Islam. Ngày xưa, hôn nhân giữa các tôn giáo này bị cấm. Cấm quyết liệt, dẫn đến chia ly và cái chết. Sự thể đã được lưu truyền trong ca dao tục ngữ, cả trong văn chương. Con của người đàn ông Bàni lấy nữ Chăm Bà-la-môn không được vào Kut chính; còn con của những đàn ông Bà-la-môn và chính người đàn ông ấy thì phải làm lễ vào đạo vợ. Đằng nào cũng nhiêu khê cả. Ngày nay, sự phân biệt ấy đã giảm đi thấy rõ.
23 thg 8, 2013
Sự hoang sơ làm nên vẻ đẹp Phú Quý
Mới đây, chuyên trang du lịch CNN (travel.cnn.com) cho hay: Đảo Phú Quý là 1 trong 9 nơi nghỉ dưỡng đẹp nhất của biển Đông, đồng thời là 1 trong 5 nơi nghỉ dưỡng đẹp nhất mà Việt Nam sở hữu như: Côn Đảo, đảo Cát Bà, Vinpearl và Whale Island (Nha Trang). Điều gì làm nên vẻ đẹp của Phú Quý?
Qua bài viết trên trang du lịch cho hay, vẻ đẹp Phú Quý được xác định là vẻ hoang sơ, chưa được khám phá, vẻ mơ màng ẩn giấu của những ngôi làng nằm xen với những bãi biển…
Qua bài viết trên trang du lịch cho hay, vẻ đẹp Phú Quý được xác định là vẻ hoang sơ, chưa được khám phá, vẻ mơ màng ẩn giấu của những ngôi làng nằm xen với những bãi biển…
Gió núi… Tà Cú
Gió gì như gió bà cô
Lạnh từ hang núi, đáy hồ lạnh lên…
Quanh vùng núi Tà Cú (Hàm Thuận Nam), mấy già Chăm còn kể cho con cháu nghe truyền thuyết về thần mưa Pô Ta Cu, vì không nghe lời Mẹ xứ sở mà bị phạt phủ phục suốt đời thành dáng núi ngày nay. Đêm đêm, hơi thở của thần lạnh lẽo cô đơn, chốc chốc quặn xoáy, nhịp thở đớn đau dằn vặt, ăn năn, nên con người muôn đời sau cứ đến “mùa đọa” là than vãn: Mùa này gió núi…
Gió núi về đêm không phải từ biển ào vào mà xoáy từ lòng núi ra, ngẫm như bà cô mang nỗi niềm khó nói, ngày xù lên, ồn ào nhưng khi đối diện chính mình trong đêm thì lạnh lẽo, oặn mình, quặn thắt ruột gan, tự làm đau mình. Có người gọi “gió bà cô”, “gió cô đơn” là vậy.
Lạnh từ hang núi, đáy hồ lạnh lên…
Quanh vùng núi Tà Cú (Hàm Thuận Nam), mấy già Chăm còn kể cho con cháu nghe truyền thuyết về thần mưa Pô Ta Cu, vì không nghe lời Mẹ xứ sở mà bị phạt phủ phục suốt đời thành dáng núi ngày nay. Đêm đêm, hơi thở của thần lạnh lẽo cô đơn, chốc chốc quặn xoáy, nhịp thở đớn đau dằn vặt, ăn năn, nên con người muôn đời sau cứ đến “mùa đọa” là than vãn: Mùa này gió núi…
Gió núi về đêm không phải từ biển ào vào mà xoáy từ lòng núi ra, ngẫm như bà cô mang nỗi niềm khó nói, ngày xù lên, ồn ào nhưng khi đối diện chính mình trong đêm thì lạnh lẽo, oặn mình, quặn thắt ruột gan, tự làm đau mình. Có người gọi “gió bà cô”, “gió cô đơn” là vậy.
Leo núi Tà Cú.
22 thg 8, 2013
Kỳ thú thác Grăng
Thác Grăng (xã Tà Bhing, Nam Giang) trở thành “điểm đến” thu hút du khách không chỉ vì có thác nước đẹp mà còn bởi không gian hoang sơ, kỳ thú.
Từ phía thượng nguồn suối Pà Xua, từng cơn gió thổi về mơn man. Dừng chân ở ngã ba thôn Pà Ia (xã Tà Bhing), đường lên thác Grăng dòng người đổ về mỗi lúc một đông. “Ngày nào cũng có hàng trăm người tìm đến, đa số là từ Đại Lộc, thị trấn Thạnh Mỹ và TP.Đà Nẵng” - anh Hợp, một người dân bản địa cho hay.
Từ phía thượng nguồn suối Pà Xua, từng cơn gió thổi về mơn man. Dừng chân ở ngã ba thôn Pà Ia (xã Tà Bhing), đường lên thác Grăng dòng người đổ về mỗi lúc một đông. “Ngày nào cũng có hàng trăm người tìm đến, đa số là từ Đại Lộc, thị trấn Thạnh Mỹ và TP.Đà Nẵng” - anh Hợp, một người dân bản địa cho hay.
Thác Grăng thu hút du khách bởi vẻ đẹp hoang sơ.
Thưởng ngoạn kiến trúc tòa thánh Tây Ninh
12h trưa là thời gian thăm quan lý tưởng cho khách đến với tòa thánh nổi tiếng trong địa phận tỉnh Tây Ninh, cách TP HCM khoảng 100 km.
Tọa lạc tại xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, cách thị xã Tây Ninh khoảng 5 km về hướng đông nam, tòa thánh Tây Ninh nổi bật trong khuôn viên với nét kiến trúc riêng.
Tòa thánh được khởi công xây dựng năm 1933 và hoàn thành năm 1947 nhưng đến năm 1955 mới khánh thành. Khuôn viên tòa thánh rộng 1,2 km2, với đền thờ Phật mẫu, vườn cây cảnh, rừng thiên nhiên. Ngôi tòa dài 140 m, rộng 40 m, có tam đài cao 36 m, hai lầu chuông và trống cao 25 m, cửu trùng đài và bát quý đài cao 30 m.
Tọa lạc tại xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, cách thị xã Tây Ninh khoảng 5 km về hướng đông nam, tòa thánh Tây Ninh nổi bật trong khuôn viên với nét kiến trúc riêng.
Tòa thánh được khởi công xây dựng năm 1933 và hoàn thành năm 1947 nhưng đến năm 1955 mới khánh thành. Khuôn viên tòa thánh rộng 1,2 km2, với đền thờ Phật mẫu, vườn cây cảnh, rừng thiên nhiên. Ngôi tòa dài 140 m, rộng 40 m, có tam đài cao 36 m, hai lầu chuông và trống cao 25 m, cửu trùng đài và bát quý đài cao 30 m.
Để giày dép bên ngoài trước khi vào tòa thánh.
Trên sông Gâm hoang dã
Sông Gâm không chỉ gắn liền với ngọn nguồn sự sống của người bản địa vùng Đông Bắc, là thủy lộ nối liền 4 tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Cạn, mà nó còn ẩn chứa nhiều vẻ đẹp hoàn mỹ chốn sơn cùng thủy tận.
Thuyền xuyên qua hẻm núi đá đổ cao chót vót tới mức những đám mây trắng bồng bềnh cứ thay nhau sà xuống bủa vây
Trong suốt chiều dài 217 km chảy vào địa phận Việt Nam, sông Gâm uốn mình, trôi xuôi theo hình cánh cung, giữa những dãy núi cao ngất cấu tạo bằng đá phiến thạch anh, cát kết và đá vôi qua quá trình vận động, kiến tạo làm nên những cảnh sắc đẹp tuyệt vời.
Đã tìm ra “đáp số” đường Phượng Bay
Cho đến tận bây giờ, nhiều người vẫn còn tranh cãi với nhau về con đường có cái tên thật hoài niệm, đường Phượng Bay. Thực sự thì đường Phượng Bay là con đường nào ở Huế? Không ai buộc, cũng chẳng ai hối thúc, nhưng mà sao vẫn cứ muốn đi tìm.
Ngày xuân chắp nhặt đôi dòng, chúng tôi mạo muội thử nêu những kiến giải của mình...”- Đó là lời mở đầu cho bài viết “Đi tìm đường Phượng Bay” của tôi được đăng trên Thừa Thiên Huế Xuân Mậu Tý-2008.
Đường Phượng Bay đã trở thành nguồn cảm hứng để nhạc sĩ tài danh họ Trịnh sáng tác nên nhạc phẩm Mưa hồng làm say lòng bao thế hệ. Và rồi, không rõ căn cứ vào đâu, nhiều người xác tín rằng, đường Phượng Bay chính là đường Đoàn Thị Điểm - con đường men dọc bờ thành bên trái của Đại Nội Huế, song song với đường Đinh Tiên Hoàng và giao cắt với các đường Nguyễn Chí Diểu, Hàn Thuyên, Mai Thúc Loan…
Ngày xuân chắp nhặt đôi dòng, chúng tôi mạo muội thử nêu những kiến giải của mình...”- Đó là lời mở đầu cho bài viết “Đi tìm đường Phượng Bay” của tôi được đăng trên Thừa Thiên Huế Xuân Mậu Tý-2008.
Đường Phượng Bay đã trở thành nguồn cảm hứng để nhạc sĩ tài danh họ Trịnh sáng tác nên nhạc phẩm Mưa hồng làm say lòng bao thế hệ. Và rồi, không rõ căn cứ vào đâu, nhiều người xác tín rằng, đường Phượng Bay chính là đường Đoàn Thị Điểm - con đường men dọc bờ thành bên trái của Đại Nội Huế, song song với đường Đinh Tiên Hoàng và giao cắt với các đường Nguyễn Chí Diểu, Hàn Thuyên, Mai Thúc Loan…
Đường Lê Duẩn đoạn trước Phu Văn Lâu
Đầu năm thăm Văn Thánh Miếu
Nếu đến Huế, thăm chùa Thiên Mụ, bạn có thể ngược lên 400m đường lên Hương Hồ ghé thăm Văn Thánh Miếu - ngôi miếu thờ Khổng Tử ở Huế.
Được xây dựng dưới triều vua Gia Long (1808), Văn Miếu là một biểu tượng sự tôn trọng việc học, đề cao nhân tài đất nước của triều Nguyễn. Quay mặt về hướng Nam, nhìn ra sông Hương, công trình được xây hình chữ khẩu, mỗi cạnh khoảng 160 mét, có la thành bao bọc với khoảng 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ. Từ Đại Thành Môn nhìn vào, ngay chính giữa là điện thờ Khổng Tử, gọi là Đại Thành Điện, xây trên một nền cao, dài chừng 32m, rộng 25m theo lối “trùng thiềm điệp ốc”. Hai bên trước Điện là Đông Vu và Tây Vu - hai ngôi nhà bảy gian thờ Thất thập nhị hiền và các Tiên nho. Trước sân Miếu có hai nhà bia, bên phải khắc văn bia của Thánh Tổ Nhân Hoàng đế (vua Minh Mạng) dụ về việc Thái giám không được liệt vào hạng quan lại. Bia bên trái khắc bài văn bia của Hiến Tổ Chương Hoàng đế (vua Thiệu Trị) dụ về việc bà con bên ngoại của Vua không được tham gia triều chính. Qua khỏi Đại Thành Môn, bên trái có Hữu Văn Đường, bên phải có Dị Lễ Đường, là những ngôi nhà kiểu một gian hai chái dùng để vua quan nghỉ chân sửa soạn lễ phục trước khi vào tế lễ. Hai dãy gồm 32 tấm bia, khắc tên 293 vị Tiến sỹ thi đỗ trong 39 kỳ thi Hội, thi Đình tổ chức dưới triều Nguyễn. Ngoài ra còn có các công trình khác như Thần trù (nhà bếp), Thần khố (nhà kho), Đại Thành Môn, Văn Miếu Môn... Các tòa nhà đều được xây dựng bằng gỗ lim, kiến trúc, trang trí đăng đối, uy nghi.
Được xây dựng dưới triều vua Gia Long (1808), Văn Miếu là một biểu tượng sự tôn trọng việc học, đề cao nhân tài đất nước của triều Nguyễn. Quay mặt về hướng Nam, nhìn ra sông Hương, công trình được xây hình chữ khẩu, mỗi cạnh khoảng 160 mét, có la thành bao bọc với khoảng 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ. Từ Đại Thành Môn nhìn vào, ngay chính giữa là điện thờ Khổng Tử, gọi là Đại Thành Điện, xây trên một nền cao, dài chừng 32m, rộng 25m theo lối “trùng thiềm điệp ốc”. Hai bên trước Điện là Đông Vu và Tây Vu - hai ngôi nhà bảy gian thờ Thất thập nhị hiền và các Tiên nho. Trước sân Miếu có hai nhà bia, bên phải khắc văn bia của Thánh Tổ Nhân Hoàng đế (vua Minh Mạng) dụ về việc Thái giám không được liệt vào hạng quan lại. Bia bên trái khắc bài văn bia của Hiến Tổ Chương Hoàng đế (vua Thiệu Trị) dụ về việc bà con bên ngoại của Vua không được tham gia triều chính. Qua khỏi Đại Thành Môn, bên trái có Hữu Văn Đường, bên phải có Dị Lễ Đường, là những ngôi nhà kiểu một gian hai chái dùng để vua quan nghỉ chân sửa soạn lễ phục trước khi vào tế lễ. Hai dãy gồm 32 tấm bia, khắc tên 293 vị Tiến sỹ thi đỗ trong 39 kỳ thi Hội, thi Đình tổ chức dưới triều Nguyễn. Ngoài ra còn có các công trình khác như Thần trù (nhà bếp), Thần khố (nhà kho), Đại Thành Môn, Văn Miếu Môn... Các tòa nhà đều được xây dựng bằng gỗ lim, kiến trúc, trang trí đăng đối, uy nghi.
Đại thành môn nhìn từ ngoài vào
21 thg 8, 2013
Ngôi nhà ma ở Long Hải
Truyền thuyết Con ma nhà họ Hứa
Trước 1975 có một bộ phim ma khá nổi tiếng (sau đó được chuyển thể thành cải lương) là Con ma nhà họ Hứa. Bộ phim được hư cấu dựa trên lời đồn về chuyện đời người con gái của chú Hỏa (tức Hứa Bổn Hòa, hoặc Hui Bon Hoa, một người giàu có nức tiếng Sài Gòn xưa).
Chuyện kể rằng chú Hỏa có người con gái cưng xinh đẹp, chẳng may mắc bịnh phong (cùi). Thuở ấy bịnh phong là một trong tứ chứng nan y, không chữa được, lại là bịnh hay lây nên người bịnh phải cách ly với thế giới bên ngoài để chờ... chết. Thương con, chú Hỏa bố trí cho cô gái một căn phòng riêng trong ngôi biệt thự sang trọng của mình, ngày ngày có người chăm sóc, nhưng tuyệt nhiên không cho bất kỳ người lạ nào biết về chuyện này.
Trước 1975 có một bộ phim ma khá nổi tiếng (sau đó được chuyển thể thành cải lương) là Con ma nhà họ Hứa. Bộ phim được hư cấu dựa trên lời đồn về chuyện đời người con gái của chú Hỏa (tức Hứa Bổn Hòa, hoặc Hui Bon Hoa, một người giàu có nức tiếng Sài Gòn xưa).
Nhà chú Hỏa ở số 97 Phó Đức Chính, quận 1, TPHCM, nay là Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố. Ảnh: Phạm Tường Nhân
Chuyện kể rằng chú Hỏa có người con gái cưng xinh đẹp, chẳng may mắc bịnh phong (cùi). Thuở ấy bịnh phong là một trong tứ chứng nan y, không chữa được, lại là bịnh hay lây nên người bịnh phải cách ly với thế giới bên ngoài để chờ... chết. Thương con, chú Hỏa bố trí cho cô gái một căn phòng riêng trong ngôi biệt thự sang trọng của mình, ngày ngày có người chăm sóc, nhưng tuyệt nhiên không cho bất kỳ người lạ nào biết về chuyện này.
Hiền hòa những ngôi chùa làng
Ở vùng đất Huế, khi Chúa Nguyễn Hoàng vào xứ Thuận Hóa đã mang theo tinh thần của Phật giáo, đi đến đâu cũng đều lập chùa. Thuở ban đầu, chùa làng chỉ là một ngôi nhà nhỏ, dựng bằng tranh tre nứa lá, mãi đến sau này, những ngôi chùa làng mới được xây dựng kiên cố với những trang trí rồng, đắp nổi sành sứ. Mỗi ngôi chùa làng đều được xây dựng ở những nơi có thế đất tốt, ở vị trí đầu làng hay ở giữa làng. Thời nhà Nguyễn còn có chỉ dẫn cụ thể về việc xây dựng chùa.
Theo đó, “việc xây dựng chùa phải chọn đất tốt, ngày, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống không, hoặc có sông- ao hồ ôm bọc. Trước mặt chùa có minh đường hay không có minh đường cũng được nhưng phía sau không nên có núi áp kề, ấy là thế đất tốt”. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Đại Vinh cho rằng “Chùa làng là loại chùa công có mặt sớm nhất ở Huế, đã trước bạ với tên xứ đất này. Thời Mạc, tại Huế đã có hai ngôi chùa nổi tiếng được sử sách ghi nhận: đó là chùa Sùng Hóa và chùa Thiên Mụ. Tuy nhiên, giữ vai trò quan trọng trong sinh hoạt tôn giáo, văn hóa xã hội của làng quê xứ Huế nói riêng, hay cả miền Trung nói chung, phải là ngôi chùa làng, ngôi chùa của một cộng đồng cư dân đã cùng chung khai phá một vùng đất, cố kết nhau trong một sinh hoạt tâm linh bền chặt, trải qua thử thách trên dưới năm, sáu trăm năm qua”.
Theo đó, “việc xây dựng chùa phải chọn đất tốt, ngày, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống không, hoặc có sông- ao hồ ôm bọc. Trước mặt chùa có minh đường hay không có minh đường cũng được nhưng phía sau không nên có núi áp kề, ấy là thế đất tốt”. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Đại Vinh cho rằng “Chùa làng là loại chùa công có mặt sớm nhất ở Huế, đã trước bạ với tên xứ đất này. Thời Mạc, tại Huế đã có hai ngôi chùa nổi tiếng được sử sách ghi nhận: đó là chùa Sùng Hóa và chùa Thiên Mụ. Tuy nhiên, giữ vai trò quan trọng trong sinh hoạt tôn giáo, văn hóa xã hội của làng quê xứ Huế nói riêng, hay cả miền Trung nói chung, phải là ngôi chùa làng, ngôi chùa của một cộng đồng cư dân đã cùng chung khai phá một vùng đất, cố kết nhau trong một sinh hoạt tâm linh bền chặt, trải qua thử thách trên dưới năm, sáu trăm năm qua”.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)