14 thg 6, 2018

Wath Paés On Paés Buôl Paes Phesh và truyền thuyết Giếng Tiên

Từ Ngã 3 An Trạch - An Hiệp, Châu Thành dài đến Na A Tưng - Kế Sách, miên man dải đất giồng vốn được xem là một trong những vùng thủy tổ của tỉnh Sóc Trăng, nơi từng hiện hữu một bến sông lớn - Kompong Thom với thương cảng sầm uất. Vùng đất 3 dân tộc Kinh, Khmer, Hoa cùng đoàn kết sinh sống lâu đời, với những bản sắc vừa riêng biệt, vừa giao thoa hòa quyện để tạo nên những nét độc đáo lạ thường. Đặc biệt đi đâu trên những xóm làng rợp mát bóng tre, xòe ô thốt nốt, những tàn tích xưa cũ này, chúng ta đều dễ dàng được nghe những câu chuyện ly kỳ. Như sự tích về “ Chiếc cồng vàng” tạo âm vang từ lòng đất, bắt nguồn cho Lễ hội Thák Côn - Cúng Dừa sau này. Bà con ở ấp Giồng Chát - Phú Tâm từng đào gặp một chiếc tàu buôn lớn với nhiều cổ vật. Trên cánh đồng vắng vẻ, tháng hạn bốn bề khô cạn, nhưng ở giữa vẫn sóng sánh một dòng nước, người dân gọi là Giếng Tiên…

Chánh điện chùa Bốn Mặt; Ảnh: Lý Thị Phương

Và trong dòng chảy của thời gian, không gian hư hư thực thực ấy là câu chuyện của hàng trăm năm trước, khi vùng đất giồng An Trạch vẫn còn thưa thớt lắm. Một lần người dân địa phương cùng nhau vỡ đất hoang làm nơi cấy trồng đã phát hiện một pho tượng khác lạ. Chẳng phải hình hài của một vị Tiên Phật, Chư tăng, hay linh vật thường thấy mà đó là một phiến đá mang dáng dấp của một tòa tháp 5 tầng, với một điều đặc biệt là mỗi tầng đều có 4 mặt, mỗi mặt là một vị thần ngự trị. 4 tầng trên là các bức tượng ngồi, riêng tầng cuối cùng lại đứng và có vóc dáng to hơn. Nhưng tất cả đều có một điểm chung là cùng nhìn ra ngoài như muốn quan sát cả thế gian. Bà con cho là điềm lành, đấng linh thiêng nên đem dâng vào Chùa. Vị sư trụ trì - Thượng tọa Thạch Bonl kể “Và đó cũng là nguồn gốc tên gọi bổn tự của chúng tôi: chùa Bốn Mặt”.

Tượng Phật Bốn Mặt Maha Prum. Ảnh: Thanh Tú

Chùa Bốn Mặt còn có tên gọi là Chùa NeRei, Ba Rai, Buôl Pres Phek hay gọi đầy đủ là Prés on Prés Buôl Prés Phék tọa lạc tại ấp Phước Thuận, xã Phú Tân, huyện Châu Thành, cách trung tâm tỉnh lỵ Sóc Trăng chừng 7km theo hướng trở ra Quốc lộ 1A, rồi đi về huyện Kế Sách. Chùa được xây dựng vào năm 1537 trên diện tích gần 7 ha.

Với hình ảnh đầu tiên vừa đem đến cảm giác tò mò thích thú vừa lạ lẫm sợ hãi khi đặt chân đến Bổn tự này là hình tượng rắn 9 đầu tạo thành hành lang dẫn vào chùa. Rắn 9 đầu hay còn gọi là rắn Thần Nagar. Theo truyền thuyết, có công che mưa cho đức Phật khi ngài ngồi thiền. Theo quan niệm của đồng bào Khmer, rắn Nagar biểu trưng cho sự thịnh vượng, xua đi tà khí, dẫn đến cõi thiên đường.

“Báu vật” của Chùa Bốn Mặt - Bảo Tháp 5 tầng. Ảnh: Nguyễn Dũng

Đi qua hành lang rắn Nagar, bước vào cổng chùa là ngôi chánh điện với màu sắc khá khác lạ - một màu vàng rực rỡ sang trọng. Dù vậy, chánh điện chùa vẫn giữ được kiến trúc nguyên thủy in đậm dấu ấn Phật giáo Nam tông từ lúc ban đầu xây dựng cho đến ngày nay với kết cấu gạch, nước, cát, rơm và vôi. Kết cấu mái chùa được xây dựng theo dạng tam cấp, mái chồng lên mái có 3 lớp. Ở viền mái và các góc cạnh được trang trí và điêu khắc công phu các hình nét mô phỏng hình tượng rồng theo mô típ của loài cá Poonco.

Bên dưới tầng mái được chạm trổ công phu các hình tượng tiên nữ Keynor, mình chim có gương mặt phúc hậu mang yếu tố thẩm mỹ và các chim thần Krud, mình người có đầu, chân và hai cánh của chim. Chim thần Krud có miệng ngậm hồng ngọc, đứng bên dưới vị trí tiếp giáp của mái và các trụ cột, biểu trưng cho sức mạnh giơ tay nâng đỡ mái chùa.

Những ngày mưa “Giếng Tiên Bà” trở thành nơi vui đùa của những chú mục đồng - trẻ chăn trâu

Đặc biệt, một điểm nhấn rất dễ nhận diện chính là vị trí cao nhất, nổi bật nhất trên đỉnh của chùa: Đầu tượng Phật Bốn Mặt gọi là Maha Prum. Đây vừa là biểu tượng tên gọi của Bổn tự vừa tượng trưng cho đức Phật luôn ở trên cao nhìn ra 4 hướng, Đông - Tây - Nam - Bắc, thấy rõ thế gian để phổ độ chúng sinh. Ở đây không chỉ có một Maha Prum được đặt ở nơi cao nhất, mà xung quanh bổn tự, chúng ta còn nhìn thấy những tượng Phật Bốn Mặt nhỏ hơn. Và “Bốn Mặt” quý nhất chính là “Bảo tháp 5 tầng với 20 vị chư Phật nhìn ra 4 hướng” được đặt linh thiêng trong chánh điện. Và cũng theo Thượng tọa Thạch Bonl là “Pho tượng cũng kỳ bí lắm, có hôm du khách đến chụp ảnh mà “tượng không cho” là không chụp được đâu”. Có người loay hoay hoài mà máy cứ bị trục trặc cái này cái nọ, có người khi chụp được thì nhòe nhòe chẳng nhìn thấy đường nét chi hết”. Còn Ông La Thông - một thành viên trong Ban Quản trị chùa - một trong những người thường xuyên lui tới coi sóc nơi này kể: “Hồi trước có cặp vợ chồng hiếm muộn, đi chữa trị cầu khấn khắp nơi, đằng đẳng hàng chục năm trời nhưng con thì vẫn không có. Một lần đến đây, quỳ trước Bảo tháp 5 tầng thành tâm khấn nguyện, chẳng bao lâu sau họ sinh được cậu con trai thật khôi ngô”.

Theo các tài liệu nghiên cứu trước đây khoảng thế kỷ thứ V, thứ VI sau công nguyên, Đạo Bà La Môn suy tàn và Phật giáo Nam tông bắt đầu phát triển, ngày càng hưng thịnh. Tượng thần Phật Bốn Mặt hay Tháp Bốn Mặt chính là sự lưu truyền lại của Bà La Môn giáo. Nếu như vậy, thì Tháp Bốn Mặt Phật này cũng có thể có cách nay hơn 1.000 năm. Trong khi trước cổng sau ngôi chùa còn phiến đá ghi lại Tượng tháp Bốn Mặt được thấy vào năm 1537, tức là cách nay cũng gần 400 năm.

Và cũng chính ông La Thông là người dẫn tôi đến “Kỳ quan thứ 2 của Bổn tự này - Truyền thuyết Giếng Tiên”. Thay vì đi ngược ra cổng để vòng ra tỉnh lộ thì chúng tôi quyết định đi bằng cổng sau của Chùa, chính vì vậy mà còn được khám phá bao điều thú vị: Những cây Đào Hồng Nhung - mà ngay các vị sư ở đây cũng không xác định chính xác là có nguồn gốc từ đâu? Ai trồng? Trồng tự khi nào? Chỉ biết rằng quanh năm xanh mát sân chùa, đến khi cuối hè thì cho trái đỏ nâu, cơm mềm, mùi thơm dịu và có vị ngọt thanh rất hấp dẫn. Theo một số tài liệu Đào Hồng Nhung hay Hồng Nhung là một loại cây gỗ họ Thị, với tên khoa học là Diospyros Phillippensis, nhiều người Việt gọi là Thị Phillippines. Đây là một loại đặc hữu của Phillippines, phân bố tự nhiên ở các khu rừng nguyên sinh, vùng thấp của các đảo với tên gọi bản địa phổ biến là Batobankilang. Ở Việt Nam loại cây này vẫn còn khá hiếm, nhưng tại chùa Bốn Mặt - Châu Thành, Sóc Trăng hiện đã có trên trăm cây và những cây đầu tiên đã trên trăm tuổi.

Quanh những gốc Hồng Nhung hay dưới mái vòm cổ tự chúng ta còn được chiêm ngưỡng những công trình điêu khắc, chạm trổ gỗ hết sức độc đáo của các vị sư và các nghệ nhân trong vùng.

Và khi những tán Hồng Nhung vừa khuất dạng sau những bước chân trên đường cát, chúng tôi vẫn còn chưa hết ngẩn ngơ trước nét tinh vi độc đáo được tạo hình từ những thớ gỗ thì một cảnh tượng lạ thường khác lại hiện ra trước mắt. Một cánh đồng gần như trơ trọi, xung quanh chỉ có những bờ cây dại, tất cả đều khô cạn nhưng chính giữa vẫn tồn tại một mương nước chạy dài, người dân trong vùng gọi đó là “Giếng Tiên” hay cụ thể hơn là “Giếng Tiên Bà”. Có khá nhiều truyền thuyết, câu chuyện được kể về sự tích này. Sau đây là một tương truyền được ghi trong địa chí Sóc Trăng, xuất bản năm 2012.

“Tương truyền, ngày xưa ở vùng Vũng Thơm không có nước ngọt, dân sống nghèo nàn, lạc hậu, cơ cực vì đất không sinh sôi nảy nở được gì. Dân chúng ngày đêm van nài trời Phật xin cầu giúp cho một mạch nước trong lành.

Lời khẩn cầu thấu đến Ngọc Hoàng, Ngài đang nghĩ cách giúp đỡ, thì vị tiên Nam Tào vào tâu rằng: Tiên Ông chăn trâu và Tiên Bà giặt lụa hiềm khích nhau. Tiên Ông cho rằng Tiên Bà giặt lụa làm nước dơ, trâu uống không được. Tiên Bà bảo Tiên Ông lùa trâu xuống nước làm đục nước không giặt lụa được.

Nghe xong, Ngọc Hoàng truyền rằng:

Để biết ai phải ai quấy, truyền cho Tiên Ông và Tiên Bà, nội trong đêm rằm mỗi bên phải đào một cái giếng trữ nước ngọt cho vùng Vũng Thơm. Bên nào đào sâu, nước nhiều sẽ thắng kiện.

Trăng vừa ló dạng thì hai toán Tiên Ông và Tiên Bà cưỡi mây hạ phàm lặng lẽ chọn nơi và bắt đầu đào.

Trời khuya dần, các Tiên Ông lo ngại, không biết giếng của Tiên Bà có lớn và sâu hơn giếng của mình không? Vị Tiên chỉ huy sai một vị sang bên kia xem. Bên này, các Tiên Bà lo đào mải miết, mồ hôi nhễ nhại, phải cởi xiêm y cho đỡ nực và đỡ vướng víu, vô tình khiến ông Tiên đi dò xét thấy thích thú, trố mắt nhìn quên đi cả phận sự.

Các vị Tiên chờ mãi không thấy vị Tiên đi dò xét về, nghi có điều bất trắc, nên vội phái một vị Tiên nữa đi tìm. Thế là lại mất hút thêm một vị nữa. Lần lượt vị nào đi tìm cũng quên trở về, khiến công việc đào giếng không làm được bao nhiêu.

Thời giờ trôi qua, gà gáy sáng vang trong xóm, các vị Tiên không thể ở lâu dưới trần gian, phải thu xếp để trở về thượng giới. Sự thắng thua đã rõ ràng: giếng Tiên Ông nhỏ và cạn, giếng Tiên Bà rộng và sâu.

Nhờ hai giếng ấy, người dân Vũng Thơm trồng trọt hoa màu tươi tốt, cuộc sống từ ấy sung túc hơn.

Ngoài ra còn một số giả thuyết, truyền thuyết không kém phần ly kỳ về sự tích Giếng Tiên.

Truyền thuyết không tránh khỏi thực hư - nhiều khi chỉ là sản phẩm từ trí tưởng tượng phong phú của con người, nhưng lại lý giải nhiều điều về cuộc sống thực tại. Chẳng hạn Tiên Ông đào Giếng thua Tiên Bà, cùng lời thách đố về cưới hỏi nên dẫn đến tục lệ con trai phải đến cầu hôn con gái. Đạo Mẫu - đề cao công đức người Mẹ… Đặc biệt là tư tưởng xem trọng nguồn nước của đồng bào Khmer.

Ông La Thông kể thêm: “Mấy năm trước, bà con xung quanh còn tận dụng để trồng sen khi mưa về nhiều nước. Còn giờ thì gần như quanh năm trơ trọi, ít người lui tới. Đấy là Giếng Tiên Bà, còn Giếng Tiên Ông - từ thuở ban đầu đã nhỏ và cạn hơn nên giờ càng khó lần ra dấu tích”. Vật đổi sao dời, tuy nhiên câu chuyện về hàng trăm năm trước - khi nơi đây là nguồn nước nuôi sống cả làng cũng như cuộc chiến của Tiên Ông - Tiên Bà để tạo nên Giếng Tiên… vẫn luôn được đồng bào lưu truyền, như một sự tưởng nhớ công ơn tổ tiên, những người đi tìm nguồn sống cho con cháu hôm nay. Nhưng truyền thuyết thì vẫn văng vẳng trong dân gian và du khách đến đây sẽ ít nhiều cảm nhận những điều khác lạ, một cái gì đó khá huyền bí từ lối vào đến cảnh vật xung quanh.

Bên cạnh những câu chuyện “Nhuốm màu cổ tích”, thì quanh Bổn tự này còn bao điều thú vị. Đó là làng nghề vẽ tranh trên kiếng độc đáo của bà con Khmer tại ấp Phước Thuận. Trải dài dưới những lũy tre là những gia đình làm nghề đan đát, những đôi tay thoăn thoắt, khéo léo, điệu nghệ với những cọng nan mỏng manh từ tre trúc để tạo nên các sản phẩm thủ công sắc sảo. Đặc biệt, nếu đến đây đúng vào dịp bà con địa phương chuẩn bị đón Lễ Ooc om boc cổ truyền, du khách còn được ghé thăm làng nghề đâm cốm dẹp ở ấp Phước Quới. Biết thêm về cách thức trồng lúa nếp và lựa chọn nguyên liệu, cách rang, cách giã để cho ra những hạt cốm nồng ấm, thơm lừng mùi hương đồng nội. Tiếng chày giã cốm hòa lẫn với tiếng réo gọi “Hầy dơ” của hàng trăm trai tráng là vận động viên ghe Ngo đang ôn lại các bài kỹ chiến thuật, rèn luyện sức bền ngay trong khuôn viên bổn tự, chờ ngày hội đua chung vui so tài với bè bạn.

Thực - Hư, tất cả cùng hòa quyện sẽ đem đến cho du khách những ấn tượng khó quên khi đến với chùa Bốn Mặt - Châu Thành - Sóc Trăng.

Tài liệu tham khảo:

[1]. Địa chí tỉnh Sóc Trăng 2012.
[2]. Lời kể của Trụ trì và các vị sư, Ban quản trị Chùa Bốn Mặt.
[3]. Tham thảo một số bài viết của Anh, Chị đồng nghiệp trên mạng Internet.


Quốc Khởi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét