7 thg 2, 2013

Viện Hải dương học Nha Trang

Viện Hải dương học Nha Trang (thành phố Nha trang, tỉnh Khánh Hòa) được coi là từ điển của hệ sinh thái biển. Đến đây du khách vừa được chiêm ngưỡng hình ảnh sống động, phong phú, vừa được tìm hiểu các loài sinh vật của đại dương và các mô hình sinh thái biển. 

Viện được thành lâp năm 1923 do người Pháp trực tiếp quản lý, điều hành cho tới năm 1952. Hiện nay, Viện nằm trong hệ thống các viện nghiên cứu chuyên ngành của Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ Quốc gia Việt Nam. Quy mô ban đầu của Viện rộng 20ha, nằm ở bờ gần vùng biển sâu, nơi gặp gỡ hai dòng hải lưu nóng-lạnh, có nhiều tầng lớp từ mặt nước đến cực sâu, tạo điều kiện thuận lợi cho các loài sinh vật biển định cư, sinh sống. 


Viện Hải dương học có 20 phòng ban chức năng và phân chia làm nhiều khu trưng bày. Để hiểu khái quát về biển Việt Nam, du khách có thể xem sa bàn “Địa hình thềm lục địa Việt Nam”. Sa bàn như một cẩm nang cho du khách hình dung về độ sâu của đáy biển, giới thiệu sự đa dạng sinh học, nguồn lợi từ biển và tuyên truyền bảo vệ môi trường biển…



Bộ xương cá voi lưng gù dài 18m, nặng 18 tấn được khai quật tại tỉnh Nam Hà năm 1994. 

Hồ Gươm bốn mùa

Cứ mỗi mùa trôi qua, hồ Gươm với các cụm di tích cổ kính như tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, tháp Bút, đài Nghiên, tháp Hòa Phong… lại tạo nên một nét quyến rũ rất riêng cho Hà Nội.
Vào mùa xuân, không gian quanh hồ Gươm tựa như một bức tranh thủy mặc mờ ảo, hữu tình.
Mặc cho không khí oi bức cùng nắng nóng của mùa hạ tràn về, hồ Gươm lúc nào cũng mang lại một bầu không khí trong lành và mát mẻ đến lạ kỳ. Những cây phượng vĩ nở hoa đỏ rực ngả bóng xuống mặt hồ.


Khi gió thu se se lạnh, những cây lộc vừng ven hồ trổ những chùm hoa e ấp và run rẩy trong gió. Mới chiều tối còn thấp thoáng mà sáng ra đã rụng đỏ cả gốc cây và mặt hồ.

Lúc gió đông lùa hơi lạnh tới từng ngõ phố, hồ Gươm như thu mình ủ ấm với sắc nước nhẹ êm, những cành cây rụng lá khẳng khiu đợi xuân sang sẽ đâm chồi, nảy lộc.

Nằm ngay giữa lòng Hà Nội, không gian hồ Gươm như một bức tranh trữ tình luôn mang lại cho mỗi người cảm giác yên bình và lãng mạn đến khó quên...

Những mầm xanh báo hiệu một mùa xuân mới đang về trên hồ Gươm. 

Lụa Vạn Phúc

Nằm bên bờ sông Nhuệ, làng lụa Vạn Phúc (Hà Đông - Hà Nội) từ lâu đã rất nổi tiếng với nghề dệt lụa truyền thống, và nay các sản phẩm được làm từ lụa của làng đã đến với người dân trong và ngoài nước với nhiều mẫu mã đa dạng mà vẫn không mất đi nét truyền thống của một làng nghề trên đất Bắc… 

Làng lụa Vạn Phúc xưa là làng Việt cổ nổi tiếng với nghề dệt lụa có từ ngàn năm nay. Đặc biệt, chiếc áo dài lụa Hà Đông duyên dáng đã quyến rũ du khách xa gần. Áo lụa Hà Đông có một sức hút lạ kỳ. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nghề dệt lụa vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời khác, góp phần tạo nên một nét văn hóa rất riêng trên đất Thăng Long ngàn năm văn hiến. Lụa Vạn Phúc “mịn mặt, mát tay” chính là “lụa Hà Đông” đã đi vào nhiều câu ca dao được lưu truyền trong dân gian. 


Tơ tằm đã tạo nên thương hiệu nổi tiếng của lụa Vạn Phúc.

Khu di tích Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Khu di tích Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nơi an nghỉ của vị cha già dân tộc mà còn là nơi ghi dấu những sự kiện trọng đại của đất nước, nơi lưu giữ những hiện vật, tư liệu quý về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người mà cả dân tộc Việt Nam gọi một cách thân thương là Bác Hồ.

Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần (2/9/1969), thể theo nguyện vọng của người dân cả nước, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng Lăng để bảo quản thi hài của Người. Lăng được khởi công ngày 2/9/1973 với sự tham gia của nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị quân đội và nhân dân. Sau 2 năm thi công liên tục và khẩn trương, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được khánh thành vào ngày 29/8/1975.

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi yên nghỉ của vị cha già dân tộc. 

6 thg 2, 2013

Đền thờ Chu Văn An

Nằm bên dòng Tô Lịch thuộc xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội có một ngôi đền thờ một nhân vật rất đặc biệt trong lịch sử phong kiến Việt Nam - người được suy tôn là "Vạn thế sư biểu", tức người thầy của muôn đời, đó chính là nhà giáo Chu Văn An (1292–1307).

Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, Chu Văn An nổi tiếng là một nhà giáo tài đức, có nhiều học trò thành đạt. Sự nghiệp giáo dục của ông đã được người đương thời cùng các thế hệ sau suy tôn là “Vạn thế sư biểu”. Sau khi mất, ông đã được dựng tượng thờ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám - Hà Nội và lập đền thờ làm Thành hoàng làng tại Thanh Trì, Hà Nội – một làng cổ nổi danh của Thăng Long xưa.

Chu Văn An người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội). Theo thần tích đình làng Thanh Liệt, nơi thờ ông làm Thành hoàng, thì ông sinh năm Nhâm Thìn (1292) và mất năm Canh Tuất (1370). 

Đền thờ Chu Văn An ở Thanh Liệt – Thanh Trì – Hà Nội. 

Diễn xướng hầu đồng

Tín ngưỡng thờ Mẫu hay đạo Mẫu trở thành một trong những tín ngưỡng của người Việt Nam, bắt nguồn từ thời kỳ mẫu hệ và tồn tại hàng ngàn năm nhưng phải từ thế kỷ XVI trở đi, trên cơ sở tục thờ Nữ Thần, Mẫu thần, nó phát triển thành Mẫu Tam phủ, Tứ phủ với Thánh Mẫu Liễu Hạnh là thần chủ. Hầu đồng được coi là một nghi lễ của đạo Mẫu, diễn xướng tín ngưỡng dân gian, chứa đựng nhiều ý nghĩa tâm linh và văn hóa nghệ thuật dân tộc. 

Thành tâm dâng hương trước lễ hầu đồng.

Lạc bước Búng Bình Thiên

Mùa nước nổi miền Tây, dòng nước sông Hậu cuồn cuộn chảy từ sông Mê Kông vào đỏ cạch phù sa. Vậy mà tôi đang đứng trước không gian thanh bình, trong vắt một màu xanh của nước sông Mê Kông. Có lẽ đó là màu xanh Mê Kông độc nhất vô nhị ở xứ sở “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh tựa bánh canh...” của bưng biền đầu nguồn sông Cửu Long...


Búng Bình Thiên, không gian xanh đặc trưng giữa vùng đất phù sa mùa nước nổi


Trên cung đèo cổ tích


Trên cung đường đèo hiểm trở và dài nhất Việt Nam trên độ cao gần 2.000 mét, giữa ngút ngàn mây trời và lồng lộng gió thổi từ ngàn năm, trong chốc lát, ranh giới giữa huyền thoại và thực tế dường như không còn...




Đèo Ô Quy Hồ còn có tên gọi là đèo Hoàng Liên, đèo Hoàng Liên Sơn do đèo vượt qua dãy núi Hoàng Liên Sơn, hoặc đèo Mây do trên đỉnh đèo quanh năm mây phủ.

Đảo Ngọc Cát Bà

Quần đảo Cát Bà có 367 hòn lớn nhỏ, đảo chính là Cát Bà rộng khoảng 100 km², nằm ở phía nam vịnh Hạ Long. Về mặt hành chính, quần đảo thuộc huyện đảo Cát Hải, thành phố Hải Phòng và cách trung tâm thành phố 30km. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cơ sở hạ tầng cũng khá phát triển với tổ hợp nhiều khách sạn, nhà nghỉ, khu nghỉ dưỡng, chùa chiền và đặc biệt là toàn bộ khu vực đảo đã được thành phố Hải Phòng triển khai các trạm thu phát Wi-Fi.


Cát Bà còn được gọi là đảo Ngọc. Theo truyền thuyết địa phương thì tên Cát Bà là do đọc chệch từ Các Bà, vì có một thời các bà, các chị ở đây đứng ra lo việc hậu cần cho các ông đánh giặc trên một hòn đảo lân cận (đảo Các Ông). Trong các bản đồ hành chính thời Pháp thuộc đều ghi là Các Bà, và hiện nay ở thị trấn Cát Bà vẫn có đền Các Bà.



Dấu xưa bên bờ Cổ Chiên

Dinh Long Hồ, dấu tích của thành Long Hồ, nay thuộc thành phố Vĩnh Long. Ảnh: Thủy Bình 

Sông Cổ Chiên là một nhánh lớn của con sông Tiền chảy ngang qua tỉnh Vĩnh Long. Thành phố Vĩnh Long thời Nguyễn là nơi ghi nhiều dấu ấn lịch sử mở cõi về đất phương Nam. Nơi đây còn lưu lại nhiều di tích như thành Long Hồ (xây dựng năm 1813), Văn thánh miếu, Thất phủ miếu, chùa Giác Thiên… 


Theo các tư liệu lịch sử, địa phận tỉnh Vĩnh Long nguyên là đất Tầm Đôn - Xoài Rạp (đất Tầm Đôn còn gọi là xứ Tầm Đôn), vị trí trung tâm của Tầm Đôn xưa thuộc khu vực thành phố Vĩnh Long ngày nay. Năm 1732, Ninh Vương Nguyễn Phúc Chú (1696-1738) đã lập ở phía nam dinh phiên trấn đơn vị hành chính mới là dinh Long Hồ, châu Định Viễn, tức tỉnh Vĩnh Long ngày nay. Nhờ đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi, dân cư đông đúc, việc buôn bán thông thương phát đạt, địa thế trung tâm, dinh Long Hồ trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quan trọng thời bấy giờ. Để bảo đảm an ninh quốc gia, chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây nhiều đồn binh như Vũng Liêm, Trà Ôn...