Ngay từ đầu
thế kỷ hai mươi, người Pháp đã nỗ
lực để tìm biết nguồn gốc của
địa danh Sài Gòn, tên của một thành phố mà qua phong
cách lãng mạn tây phương họ biến nó thành “Hòn
Ngọc Viễn Đông” (La perle de l’Extrêm Orient), một cái
tên đã được thông dụng từ lâu nhưng
họ, và cả ta nữa, đều không biết nghĩa.
Vì thiếu tài liệu, tôi không thể trích dẫn tên
của nhà học giả tiên phong đó, chỉ biết
đại khái các điều sau đây. Ông ấy cho
rằng Sài Gòn, người Cao Miên, chủ đất cũ
của miền Nam nước Việt, gọi Là Prây Nokor.
Prây là Rừng, Nokor là Quốc gia. Có thể Sài Gòn do âm
của Prây Nokor mà ra chăng? Đây chưa hẳn là
giả thuyết đáng tin cậy. Prây cũng có thể
biến thành Sài. Nhưng Nokor có hơi khó biến thành Gòn
lắm.
Riêng tôi thì tôi thấy giả thuyết này không đứng vững. Tôi biết cơ cấu của ngôn ngữ Cao Miên (tức Cam Bu Chia), nó không có khác cơ cấu Việt Ngữ, trừ một chi tiết nhỏ. Ta nói “ba con cá” thì họ nói cá ba con. Theo cơ cấu đó thì “Quốc Gia rừng” phải là “Nokor Prây”, chớ không thể là Prây Nokor được. Mặt khác, người Chàm gọi Sài Gòn của ta là Prây Kor, chớ không hề là Prây Nokor. Prây Kor, cũng cứ là tiếng Cao Miên mà người chàm vay mượn, có nghĩa là Rừng Bò. Có lẽ xưa kia ở đó người ta nuôi bò nhiều, trong rừng, hoặc là ở đó nhiều bò rừng.
Một ông Tây thứ nhì, cũng biết cơ cấu
ngôn ngữ Cam Bu Chia như tôi, xác nhận rằng
địa danh phải là Prây Ko, hoặc Prây Kor, chớ không
thế nào mà là Prây Nokor được hết. Rừng
quốc gia là cái gì? Người Cao Miên xưa đâu có
biết khoanh rừng để tạo ra những cái
National Forest như người Mỹ ngày nay. Nhưng
cũng có đưa vào thuyết một điều mới
lạ. Ông ấy cho là Ko, hoặc Kor, không phải chỉ có
nghĩa là Bò, mà là có nghĩa là cây gòn, một thứ cây có
công dụng y hệt như cây gạo của Bắc
Việt.
Cambuchia: Ko(r); Lào: Gòn; Phù Nam: Gòn; Nam Kỳ xưa nay: Gòn.
Và ông ấy kết luận rằng Sài Gòn do Prây Kor
biến ra. Prây biến ra Sài thì có thế chấp nhận
được, nhưng Kor, sao không biến ra Cò, mà biến
ra Gòn. Dịch chăng? Khó lòng mà có lý. Nếu dịch, thì
dịch cả hai từ, chớ sao lại chỉ lấy
âm từ thứ nhứt thôi, còn từ thứ nhì thì lại
dịch?
Thế nên thuở ấy các nhà học giả ta mới
xía vào, cho rằng xưa kia ta chặt cây gòn ở đó
để làm củi chụm, mà Củi thì chữ nho là Sài.
Thuyết của ta là cố gắng giúp cho thuyết
thứ nhì của Tây có lý mà thôi, tức ta dịch cả hai
từ, từ đầu Rừng, gượng gọi
củi dịch ra chữ nho là Sài, còn từ sau Kor thì
dịch ra tiếng Phù Nam là Gòn mà Nam Kỳ vay mượn.
Thiên hạ làm thinh sau thuyết của ta, vì không ai
biết phải giải thích cách nào cho ổn hơn hai ông
Tây và vài ông Việt nói trên. Nhưng nửa thể kỷ
sau, sau năm 1954, thì có Vương Hồng Sển lên
tiếng, không phải bằng một bài báo, mà bằng
một quyển sách, quyển “Sài Gòn năm xưa”. Cụ
Vương bác bỏ ba thuyết không vững trên kia. Theo
cụ thì mọi việc xảy ra như sau, và có lấy
tài liệu ở bộ sử địa Gia Định
Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức:
Trịnh Hoài Đức viết rằng sau khi Tây Sơn
tàn phá thành phố lớn Nông Nại Đại Phố,
ở Biên Hòa, thì người Tàu sống sót, trong đó có
họ Trịnh, người Tàu lai, chỉ mới lên tám,
chạy xuống phía dưới để lập ra
một thành phố khác, nay truy ra là thành phố ấy là vùng
Chợ Lớn ngày nay. Đa số người Tàu sống
sót là người Quảng Đông. Họ đặt tên
thành phố mới ấy là Đề Ngạn Thành.
Đề Ngạn có nghĩa là “Nắm (vững) bờ
sông”. Sông ở đây, chỉ là sông con, trỏ tả
ngạn của con rạch Cầu ông Lãnh, đoạn nằm
ở đại lộ Đồng Khánh ngày nay.
Người Quảng Đông phát âm Đề Ngạn là
Thầy Ngồl, và Thầy Ngồl bị Việt Hoá ra là
Sài Gòn.
Đây là thuyết hữu lý nhất, so với ba
thuyết trên, nhưng mà rồi lại sai, khi ta nghiền
ngẫm sâu vấn đề. Những gì mà cụ
Vương Hồng Sển nói ra đều đúng cả,
chớ không phài là nói liều, bằng chứng là mãi cho
đến ngày nay, người Tàu vẫn tiếp tục
gọi Chợ Lớn là Thầy Ngồl, viết ra chữ
là Đề Ngạn.
Nhưng tại sao rồi thì địa danh Sài Gòn,
đáng lý gì chỉ trỏ Chợ Lớn thôi, mà lại
trỏ Sài Gòn chớ không trỏ Chợ Lớn bao giờ?
Đồng hóa chăng vì hai thành phố đó chỉ là
một? Không, không có vấn đề đồng hóa.
Dưới đây là những gì mà kẻ viết bài nầy
đã thấy vào năm 1928. Xin nhắc lại vài chi
tiết về đời sống cá nhân riêng tư của
người viết bài.
Cha mẹ tôi làm nghề buôn gỗ. Thể nên từ
năm lên bảy (1920) tôi đã được dịp theo
cha mẹ để đi chơi Sài Gòn. Nhưng chưa biêt
rõ Sài Gòn đâu. Mãi cho đển năm 1928 tôi mới
rời làng, sống hẳn ở Sài Gòn để theo
học Trung học (Làng của tôi là làng huyện lỵ
nhưng dưới thời Pháp thuộc, trong làng chưa có
trường trung học như dưới thời ông Ngô
Đình Diệm).
Vào năm 1928 thì tôi đã lớn xác và biết thật
rõ về Sài Gòn. Sài Gòn và Chợ Lớn là hai thành phố khác
nhau, cách biệt nhau bằng một vùng đất gần
như là hoang vu, bề rộng của vùng đất hoang
ấy ước đến sáu miles chớ Không phải ít.
Sài Gòn chỉ tiến đến cái nơi mà nay là rạp
hát Nguyễn Văn Hảo. Đại lộ Trần Hưng
Đạo đã có rồi, tên cũ là đại lộ
Galliéni. Có đường xe điện nối liền hai
thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn. Từ rạp Nguyễn
Văn Hảo (thuở ấy chưa xây cât) đi mãi cho
tới chợ Hòa Bình (thuở ấy cũng chưa xây
cất) là đồng không mông quạnh, thỉnh thoảng
mới thấy một nhà gạch nằm giữa
đồng. Trường Trương Vĩnh Ký mà tôi theo
học, cũng cho nằm giữa đồng trống minh
mông.
Thế thì làm sao mà có sự đồng hóa hai thành
phố làm một trước năm đó được,
vì trước năm đó hằng trăm năm, Sài Gòn
đã được gọi là Sài Gòn rồi, mà khoảng
cách thì lại còn xa hơn là vào năm 1928 nữa.
Đành là không thể biết sự thật, và tạm
chấp nhận thuyết Vương Hồng Sển
vậy.
Cổng công viên Tao đàn
Sau khi sách của cụ Vương Hồng Sển ra
mắt độc giả thì một quyền sách khác
được xuất bản, đó là quyền “Lịch
sử xứ Đàng Trong” mà tên của tác giả tôi đã
quên mất, nhưng còn nhớ khá nhiều những
chương sách đó. Tác giả của quyển sử này
bác bỏ thuyết Vương Hồng Sển bằng
luận cứ sau đây, mà tôi chỉ nhớ đại
khái thôi, và đây là nhắc lại chớ không phải là
trích sách: “Có người cho rằng địa danh Sài Gòn là
do địa danh Đề Ngạn, đọc theo Tàu là
Thầy Ngồi biến ra. Nhưng tôi chỉ
tin theo tài liệu Cổ thôi là sử Trào Nguyễn, sử
này viết tên của Sài Gòn là Sài Côn vậy Sài Gòn do Sài Côn mà
ra.”
Thuyết này quá yếu về các điểm sau đây:
A) Nhưng còn Sài Côn thì do cái gì mà ra chớ? Sài Côn,
chữ nho có nghĩa là Cây gậy bằng củi? Sao vua chúa
ta lại đặt tên một thành phố kỳ khôi
đến thế chớ ?
B) Sử trào Nguyễn viết dưới thời
Tự Đức, trong khi đó thì danh xưng Sài Gòn đã
cò rồi hằng trăm năm trước Tự
Đức. Thế sao dùng Sài Côn thời Tự Đức
để làm căn bản được? Còn Sài Gòn đã
có rồi trước Tự Đức thì do cái gì mà ra? Ta
nên nhớ rằng vua Tự Đức là một ông vua
Việt Nam mê Tàu nhất nước. Ông vua ấykhông bao
giờ cho quan của ông đặt tên một thành phố
là “cây gậy bằng củi” đâu, trừ phi tên đó là
tên phiên âm mà ông vua ấy đành phải chấp nhận.
Thế thì Sài Côn chỉ là phiên âm của Sài Gòn, chớ
không phải Sài Gòn là phiên âm của Sài Côn. Vã lại Sài Côn
đã có âm Hoa Việt là âm rất quen tai với dân ta, thì dân
ta mắc chứng gì mà lại đi phiên âm Sài Côn ra là Sài
Gòn?
***
Ta đành chịu bí (chỉ
tạm chịu bí thôi) và còn một điều khó hiểu
nữa: Người Tàu gọi Sài Gòn của ta là Xi Cống
viết ra chữ thì là Tây Cống. Tây Cống do cái gì mà ra
đây? Có phải Sài Gòn bị Hoa hóa thành Xi Cống không?
Nhứt định là không, vì Tàu Quảng Đông vẫn có
âm Sài, họ không mắc chứng gì biến Sài ra là Xi.
Nếu họ không có âm Gòn thì họ cũng gọi Sài Gòn là
Sài Cống, mà không bao giờ là Xi Cống cả đâu.
Tôi tạm dẹp vụ Sài Gòn lại để làm
việc khác nhưng không phải là đầu hàng vĩnh
viễn. Sang tới đất Huê Kỳ này thì sự
thật mới chịu lòi ra, mà lại lòi nhờ sự
hiểu biết của người Hoa Kỳ này thì thật
là oái oăm không thể tưởng được. Số
là tôi có một người láng giềng, một vị bác
sĩ y khoa trước kia ở Sài Gòn, sang đây ông ấy
giúp cho tiểu bang Cali tiếp coi về Á Đông sự
vụ. Ông ấy góp nhặt tất cả những gì mà
người Mỹ viết về Á Đông, để nghiên
cứu thêm, vì ông ấy thấy rằng người Mỹ
biết nhiều hơn ông ấy, nhưng ông ấy chỉ
nghiên cứu lịch sử, chủng tộc học, phong
tục học, tôn giáo thôi mà bỏ sót ngôn ngữ học.
Chính tôi, khách láng giềng, hưởng được các
sách ngôn ngữ học mà ông ấy không dùng tới.
Trong một quyển sách nhỏ, nhan là “Cantonese Speaking
Students” do California State Department of Education xuất bản,
soạn giả cho biết rằng trong tỉnh Quảng
Đông có đến sáu phương âm khác nhau. Mỗi
phương âm ăn khớp vào với một vùng
đất của tỉnh ấy, và có một vùng
đất kia tên là Sài Gọng (có G cuối). Sách nói trên là sách
tiếng Anh, nhưng có chua chữ Tàu. Sài Gọng
được chua là Tây Giang. Tây Giang là một con sông khá
lớn bắt nguồn từ xứ ta, nhưng chảy lên
Quảng Đông để rồi đổ ra biển,
cũng trong tỉnh Quảng Đông.
Tôi có kiểm soát lại sách đó, và thấy rằng
tác giả có sai ở một điểm. Trong sách có nói
đến phương âm Màn, Màn là Mân-Việt đó, và
chắc chắn là sách ấy trỏ bảy phủ
Triều Châu. Xin nhắc rằng nước Mân-Việt
thời Tần Thủy Hoàng gồm bảy nhóm Mã Lai tất
cả, gọi là Thất Mân, nhưng về sau nhà
nước Tàu lại đặt một trong bảy nhóm
ấy là nhóm Triều Châu, vào tỉnh Quảng Đông (sáu
nhóm kia là Phúc Kiến) mà như thế thì âm Mân không phải
là một phương ngữ Quảng Đông, mà là một
ngôn ngữ riêng biệt.
Quan Thoại: Xữa là Ăn; Quảng Đông: Xực
là Ăn; Phúc Kiến: Lim là Ăn; Triều Châu: Cha là Ăn.
(Chỉ có Quảng Đông
là nói Ăn bằng tiếng Tàu, các nhóm Tàu Hoa Nam khác nói
Ăn bằng tiếng Mã Lại). Nhưng điểm sai
của quyển sách đó, không liên hệ đến
việc tìm tòi của ta nên tôi chỉ nói qua vậy thôi, và
trái lại muốn khen tác giả sách ấy là người biết
nhiều, vì chỉ sai có một điểm nhỏ trong
một quyển sách. Như vậy là giỏi lắm
rồi.
Cái điều mà ta cần biết là đã
được biết, đó là nguồn gốc của
địa danh Sài Gòn (không G cuối) Sài Gòn do Sài Gòng mà ra, và
đó là tiếng Tàu, không bị Việt hóa theo cái lối
chữ nho, mặc dầu văn tự đã bị
đọc sai ra là Tây Giang.
Thế nên tôi xin trình ra một thuyết mới, mặc
dầu sự phát hiện địa danh Sài Gòng (tên tàu)
cũng đã khá rõ ý nghĩa rồi, khá rõ đối
với một số người, nhưng còn chưa rõ
đối với đa số. Trước hết xin bác
bỏ thuyết Vương Hồng Sển, không, theo
luận cứ của quyển “Lịch Sử Đàng
Trong”, mà theo luận cứ khác. Thầy có thể biến
thành Sài, nhưng Ngồl biến thành Gòn thật khả
nghi, mặc dầu cha tôi, mẹ tôi đều gọi Sài
Gòn là Thầy Gòn, có thể xem đó là cái móc không gian giữa
Thầy Ngồl và Sài Gòn. Nhưng cũng không chắc
chắn lắm về vụ âm trung gian đâu. Cha mẹ tôi
buôn bán với Chợ Lớn chớ không với Sài Gòn vì
thuở ẩy người mình chưa lập vựa
gỗ quí tại Sài Gòn như từ sau này, tại
đường Hồng Thập Tự, có thể sau hai
vị sanh thành ra tôi đã lấy âm Thầy của Thầy
Ngồl, nhập lại với Gòn của Sài Gòn cũng nên.
Ta có thể nghĩ rằng Trịnh Hoài Đức không
biết hết sự thật. Trịnh Hoài đức
đã thú nhận rằng ông chạy về vùng dưới
sau khi Tây Sơn tàn phá vùng Biên Hòa. Nhưng rồi ông không
sống với người Tàu, mà theo mẹ, vốn là
người Việt sống riêng ở làng Hòa Hưng (vùng
khám Chí Hòa nay) và học với thầy Việt là cụ Võ
Trường Toản, nhờ thế mà về sau họ
Trịnh mới thi hội đỗ đạt và làm quan
ở Huế, chớ học với thầy Tàu thì không sao
mà đỗ được, cho dầu ông thầy ấy là
Khổng Tử đi nữa, vì các cuộc thi của ta có
cách thức khác Tàu, chỉ giống Tàu ở điểm thi
cử văn chương nhiều hơn là thi cử
thực tiễn. Năm chạy loạn, họ Trịnh
chỉ mới lên tám, chưa biết gì cho thật rõ
lắm. Ngày nay, đi từ khám Chí Hòa vào chợ Lớn,
chỉ tốn có một cuốc tắc xi, nhưng vào
năm Trịnh Hoài Đức - năm 1775 - thì hoàn toàn không
phải như vậy.
Chắc bạn đọc ai cũng biết chợ
Trương Minh Giảng, một vùng thương mãi trù
mật. Ấy thế mà vào năm 1941 tôi tên đó chơi,
để hóng mát thì nơi đó đồng không mông
quạnh. Tôi hỏi một ông cụ nông dân ở đó
về đời của ông cụ, ông cụ kể rõ
một việc, trong đó có chi tiết sau đây. Từ bé
đến lớn, ông cụ chưa hề đi Sài Gòn hay
đi Chợ Lớn, vì cái lẽ giản dị là con
đường Trương Minh Giảng với cây cầu
Trương Minh Giảng chỉ mới có từ cuối
năm 1938. Trước đó. không đi đâu
được hết. Hòa Hưng còn xa hơn chợ
Trương Minh Giảng nữa, thì có thể chú bé
Trịnh Hoà Đức chẳng biết gì về Đề
Ngạn đâu.
Thuyết của tôi là như thế nầy. Cái tên
đầu tiên mà người Tàu đặt ra cho cái thành
phố mà nay ta gọi Chợ Lớn, không phải là
Đề Ngạn mà là Sài Gòng. Tại sao họ lại
đặt như vậy? Là tại họ là người
Quảng Đông gốc Sài Gòng (bên Tàu). Lối đặt
tên đó giúp cho họ nhớ quê hương của họ.
Ta lại không đặt tên cho khu Bolsa là tiểu Sài Gòn hay sao?
Và đặt như thế, có phải chăng để mà
nhớ Sài Gòn của ta hay sao chớ ?
Và Đề Ngạn, chỉ là tên thứ nhì do
người Quảng Đông đến sau, họ không có
gốc Sài Gòng (bên Tàu) nên họ thấy Sài Gòn vô nghĩa,
họ phải đặt tên lại vậy. Và họ
rất có lý mà đặt tên lại, vì bấy giờ thành
phố đó đã phồn thịnh phần nào rồi nên
mới mang tên là “Nắm Vững Bờ Sông” chớ thuở
mới lập, nó chỉ là vài trăm nếp nhà lá, có
nắm vững gì đâu mà đặt là Thầy Ngồl.
Vậy địa danh đầu, bị bỏ mấy
chục năm, không dùng tới, đến khi Trịnh Hoài
Đức lớn lên thì ông chỉ còn biết Thầy
Ngồl (Đề Ngạn) thôi nên không hề nói
đến Sài Gòn bao giờ.
Sau đó non một trăm năm thì Pháp chiếm cái
nơi mà nay là Sài Gòn, nhưng thuở ấy được
gọi là Gia Định kinh, vì Nguyễn Ánh không chắc
mình sẽ lấy lại được Huế, nên xây thành
ở đó và xem nơi đó là Kinh Đô của miền
Nam, và miền Nam thuở ấy mang tên là xứ Gia
Định. Thế rồi người Tàu ở Thầy
Ngồl tràn ra đó để hợp tác với Pháp và Pháp
đang cần người mà dân ta thì bỏ đi (xin xem
tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu, và các bạn
sẽ thấy là dân ta bỏ Gia Định Kinh mà đi
nhiều lắm). Người Tàu tràn ra đó, họ có
tật đặt tên, bất kể tên của người
bổn xứ. Sáng tác thì mất công lắm nên họ cứ
lấy tên đầu tiên của Thầy Ngồl là Sài Gòng
để gán cho thành phố thứ nhì mà họ tràn tới
đông đảo và cũng thành công về sanh kế.
Tới đây thì ta cứ tưởng mọi việc
đều xuôi chèo mát mái, vì thuyết này có vẻ ổn
hơn thuyết Vương Hồng Sển.
Còn rắc rối ở cái điểm. Thế rồi
tại sao Sài Gòn của ta không được Tàu chợ
Lớn gọi là Sài Gòng, mà sao lại gọi là Xi Cống ?
Quá dễ hiểu. Khi Tàu ở Thầy Ngồl thành công
rồi thì đồng bào của họ hay tin nên lại sang
đây từng đợt, mà các đợt sau không
đọc Tây Giang là Sài Gòng mà đọc khác, như
quyển sách Hoa Kỳ đã cho ta biết khi nãy là ở
tỉnh Quảng Đông có sáu phương âm (mà chúng tôi
vừa loại bớt một). Họ đọc Tây Giang
như sau:
a/ Sài Gòn; b/ Tsi Kiang; c/ Tsi Kang; d/ Xi Cống.
Ấy có thể nhóm sang đây đông đảo là cái
nhóm đọc hai chữ Tây Giang là Xi Cống.
Nhưng vẫn chưa hết phiền đâu. Nay
họ không còn viết ra chữ là Tây Giang nữa, mà là Tây
Cống. Tại sao lại thế? Cũng dễ hiểu
thôi. Cống là từ đồng âm dị nghĩa củ
họ. Cống là sông, mà cống cũng lại trỏ
nhiều thứ khác nữa. Đối với người
đến sau, không có gốc ở Tây Giang. thì nói về
Cống tức là Sông là chuyện vô lý, nhưng nói
đến những Cống khác thì hay. Chẳng hạn,
đất đó là đất mà người Tây
Phương “cống” cho họ để họ nhờ
đó mà làm giàu. (Thật ra thì chữ Cống về sau cũng
chẳng phải là Cống sứ đâu, và nếu không có
biến cố 1975, có thể Cống sẽ bị viết
khác nữa, vì có rất nhiều Cống).
Tôi không còn gì dể nói về Sài Gòn nữa, nên xin phép
bạn đọc viểt lạc đề vài câu. Trong
quyển sách “Thời Đại Hùng Vương” của Hà
nội (đây là sách hợp soạn), một tác giả
đã viết đại khái: Chữ Giang của Tàu là vay
mượn của dân phương Nam (ý tác giả muốn
trỏ Đông Nam Á, bằng chứng là họ viết
bằng chữ Công với bộ Thủy. Công có nghĩa là
Sông). Tác giả ấy không hề cho biết Công là danh
từ của dân tộc nào. Tôi xin trình ra danh từ của
các dân tộc lớn ở Đông Nam Á thử xem sao:
lndonesia: Kali; Phù Nam: Ka-i; Nam Kỳ xưa nay: Cái (sông
thật nhỏ trong Cái Mơn, Cái Thia, Cái Nhum, Cái Tàu vv… )
Mã Lai: Sungai; Việt Nam: Sông; Cam Bu Chia: Stưng; Lào:
Nặm (sông nhỏ); Lào: Thađai (sông lớn, tức sông
Cửu Long Gíang); Thái: Maê (sông nhỏ); Thái: Mê (sông lớn.
tức sông Mênam): Chàm: Krong; lndonesia (riêng đảo Sumata):
Kroeneng; Phù Nam: Bassac (sông lớn có bùn phù sa)
Chẳng thấy dân tộc nào có danh từ Công hay Kông
mang nghĩa là sông. Các dân tộc nhỏ như Mạ, Sơ
Đăng, Bà Na thì dùng danh từ Nước để
trỏ Sông, mà cả dân tộc Lào, dã dựng nước
rồi, cũng làm như thế, vì trong Lào Ngữ Nặm
có nghĩa là Nước. Tác giả của quyển
“Thời đại Hùng vương” có thể cải: “công”
do Cống của Quảng Đông mà ra. Nói như thế thì
có lý đó. Nhưng than ôi, khi đưa ra cái thuyết Công
là Sông, thì tác giả ấy chưa biết rằng
người Quảng Đông đã dọc Giang là Cống.
Đó là điều mà tôi mới ra hôm nay, lần thứ
nhất, trên quả địa cầu. Và sự thật thì
Công trong tên con Sông Mê Kông, không hề có nghĩa là Sông đâu.
Chính Mê mới là sông, đó là tiếng Thái, còn Kông là To,
Lớn. Mà tác giả thì lại nghĩ đến MêKông .
Bình-nguyên Lộc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét