Hiển thị các bài đăng có nhãn Báo Kontum. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Báo Kontum. Hiển thị tất cả bài đăng

9 thg 3, 2020

Thơm ngon rượu ghè nếp than Y Gar

Từng uống rượu ghè nếp than ở nhiều nơi, nhưng chưa ở đâu tôi thấy rượu ghè nếp than có nét đặc trưng riêng như rượu ghè nếp than của bà Y Gar, thôn Kon Sờ Lạc 2, xã Đăk Ruồng, huyện Kon Rẫy. Nét đặc trưng của rượu này là: Thơm ngọt, lại đăng đắng... rất khó quên!
Ông nói chí phải!
Mặc dù trên địa bàn xã Đăk Ruồng có nhiều người đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sản xuất rượu ghè, nhưng khi nói đến rượu ghè, người ta thường nhắc đến thương hiệu rượu ghè của bà Y Gar ở thôn 12 (Kon Sờ Lạc 2). Có lẽ vì vậy, khi thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm, UBND xã Đăk Ruồng nghĩ ngay đến rượu ghè bà Y Gar.

Qua sự giới thiệu của UBND xã, tôi cùng anh Nguyễn Văn Bình (Văn phòng Đảng ủy Đăk Ruồng) đến nhà bà Y Gar trong buổi chiều muộn. Khi đến nhà, gặp lúc bà đi làm rẫy chưa về. Tranh thủ thời gian chờ đợi, tôi được ông A Phương (chồng bà) tiếp chuyện. Ông kể rằng, để giúp vợ làm rượu ghè, ông thường lên rẫy chặt cây h’nham đem về lột lấy vỏ giã với ớt và trộn với bột gạo, nặn từng cái bánh, ủ cho lên men rồi đem bánh men phơi khô. Khi làm rượu ghè, đem bánh men bóp nhỏ hoặc giã thành bột trộn với cơm nếp than, cơm gào hay gạo tẻ... để mươi ngày là thành rượu nếp than, rượu gào hay rượu gạo tẻ.

6 thg 3, 2020

Sa Thầy, mảnh đất giàu nét đẹp văn hóa truyền thống

Không chỉ nổi tiếng với Di chỉ khảo cổ Lung Leng ghi dấu người tiền sử ở Tây Nguyên, huyện Sa Thầy còn được biết đến là một trong những chiếc nôi văn hóa dân gian của tỉnh. Hơn 40 năm sau ngày được thành lập, bản sắc dân tộc, nét đẹp văn hóa truyền thống của đồng bào các DTTS sinh sống lâu đời trên địa bàn vẫn được quan tâm gìn giữ và phát huy.

Điều đó không chỉ thể hiện qua lối kiến trúc nhà rông, nhà sàn, nét đẹp cồng chiêng - xoang, các điệu dân ca, dân vũ; mà còn được khẳng định nhờ các nghề truyền thống, từ dân dã, phổ biến như đan lát mây tre, dệt thổ cẩm đến riêng biệt và đặc sắc với tạc tượng gỗ, đẽo thuyền độc mộc.

Là làng tái định cư lòng hồ thủy điện Plei Krông, Đăk Wơk đã trở thành điểm sáng trong bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống nhờ gây dựng được nhiều thế hệ tiếp nối nặng lòng với tình yêu văn hóa dân gian. Đây cũng là làng DTTS duy nhất của tỉnh vinh dự tham gia nhiều sự kiện văn hóa dân tộc ở nước ngoài. Trong đó, có Lễ hội Smith Sonian tại Washington D.C, Hoa Kỳ vào năm 2007, Liên hoan Ganat lần thứ 14 tại Pháp năm 2014. Nghệ nhân trẻ A Đan ở làng Đăk Wơk cho hay: Em từng có vinh dự được cùng các nghệ nhân lão luyện đi biểu diễn ở Hàn Quốc, Mỹ, Pháp… Ai cũng sung sướng, tự hào, vì cái hay cái đẹp cồng chiêng, sử thi, đan lát, đẽo thuyền độc mộc… của đồng bào Ba Na nhánh Rơ Ngao được giới thiệu ra nước ngoài.

4 thg 3, 2020

Nhà rông của dân tộc Brâu ở Pờ Y

Cũng như cộng đồng các DTTS tại chỗ ở Kon Tum, nhà rông chiếm một vị trí khá quan trọng trong đời sống văn hóa, sinh hoạt cộng đồng của dân tộc Brâu. Từ khi chọn vùng đất Đăk Mế (xã Pờ Y, huyện Ngọc Hồi) định cư đến nay, người Brâu đã 3 lần xây dựng nhà rông truyền thống. Với người Brâu, nhà rông gắn liền với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, là nơi sinh hoạt cộng đồng, là biểu tượng cho sức mạnh, sự che chở của thần linh đối với dân làng.

Là người gắn bó với nhiều thăng trầm của cuộc sống và sự phát triển của ngôi làng, bà Y Pan (90 tuổi) già làng Đăk Mế nhớ rõ về lịch sử nhà rông văn hóa của dân tộc bà, từ khi dân làng còn sinh sống trong rừng sâu. Bà Y Pan kể, lúc bấy giờ ngôi làng chỉ có hơn 60 hộ dân. Nhà rông nằm ở vị trí chính giữa làng. Nhà của các hộ dân nằm ở vị trí xung quanh theo hình tròn, cửa chính đều hướng về nhà rông, thể hiện sự đoàn kết và hội tụ sức mạnh cho ngôi làng.

Nhà rông hay nhà ở của các hộ dân đều có sàn nhà cao hơn mặt đất 1 tong pa do (đơn vị đo chiều cao của người Brâu, 1 tong pa do bằng chiều cao của 1 người đàn ông trưởng thành đứng dơ tay). Nhà rông hình vuông nên có 4 phần mái hình tam giác chụm vào nhau hướng lên trên. Nhà ở của các hộ dân hình chữ nhật nên phần mái hình chữ A, có 2 mái chính và phụ (mái chính nằm bên dưới, mái phụ nằm bên trên và có kích thước nhỏ hơn mái chính).

2 thg 3, 2020

Gùi của người Gia Rai

Cũng như các dân tộc tại chỗ khác ở Tây Nguyên, chiếc gùi rất gần gũi trong đời sống sinh hoạt và trở thành một nét văn hóa truyền thống của người Gia Rai. Với người Gia Rai, chiếc gùi được tạo nên từ bàn tay khéo léo của những người đàn ông lớn tuổi trong làng. Ngày nay, người Gia Rai đan gùi vừa để góp phần gìn giữ nghề truyền thống, vừa để bán nhằm kiếm thêm thu nhập trang trải chi phí sinh hoạt cho gia đình.

Hàng ngày, ngoài công việc giữ cháu, ông A Dót (62 tuổi) ở làng Điệp Lốc, xã Ya Tăng (huyện Sa Thầy) tranh thủ những lúc nhàn rỗi để đan gùi. Đây là việc làm yêu thích của ông A Dót từ khi còn nhỏ. Khi A Dót biết đi rừng, ông đã được cha của mình - ông A Lết dẫn vào rừng tìm kiếm các vật liệu và truyền dạy cho ông cách đan gùi. Dần dần những đam mê với việc vót từng cọng nan và tỉ mẩn đan lát lên những chiếc gùi làm vật dụng trong gia đình thấm vào máu thịt A Dót lúc nào không biết. Ở tuổi ngoài 60, A Dót không thể nhớ hết có bao nhiêu chiếc gùi được bàn tay khéo léo của mình làm nên.

Đến nay, ông A Dót đan gùi được hơn 40 năm. Ông chỉ còn 1 chân phải (do tai nạn lao động hồi trẻ), việc đi lại khó khăn nên vật liệu để đan gùi đều do các con của ông đi rừng kiếm được.


Đến nay, ông A Dót đan gùi được hơn 40 năm. Ảnh: ĐT 

12 thg 12, 2019

Từ dòng sông Sê San

Sê San - dòng sông hùng vĩ với nguồn nước dồi dào, lắm ghềnh thác. Dòng sông không chỉ cung cấp nguồn năng lượng dồi dào để phát triển hệ thống thủy điện mà còn chứa đựng trong lòng nó nguồn lợi thủy sản phong phú, đa dạng với nhiều loại cá quý hiếm, góp phần nâng cao đời sống người dân hai bên bờ sông. 

Là một trong các nhánh sông lớn của lưu vực hạ du sông Mê Kông, sông Sê San do 2 nhánh sông chính là Krông Pô Kô (phía hữu ngạn) và Đăk Bla (tả ngạn) hợp thành, rồi chảy theo hướng Đông Bắc sang Tây Nam dãy Trường Sơn. Với tổng chiều dài gần 300km, diện tích lưu vực 11.450km2, Sê San là con sông có tiềm năng thủy điện lớn thứ 3 trong cả nước, sau sông Đà và sông Đồng Nai.

Với lợi thế và tiềm năng thủy điện phong phú, đến nay, lưu vực sông Sê San đã được Chính phủ phê duyệt xây dựng 7 công trình thủy điện (gồm thủy điện Plei Krông, Ya Ly, Sê San 3, Sê San 3A, Sê San 4, Sê San 4A và Thủy điện Thượng Kon Tum, với tổng công suất 1.831 MW). Hàng năm, các nhà máy thủy điện trên sông Sê San cung cấp hàng tỷ KWh điện. Nguồn điện trên dòng Sê San đóng góp không nhỏ vào hệ thống điện lưới quốc gia, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phục vụ quá trình phát triển kinh tế-xã hội, đáp ứng nhu cầu sử dụng cho sản xuất, sinh hoạt của nhân dân trong vùng và cả nước.


Người dân làng chài đánh bắt cá trên lòng hồ Sê San 4. Ảnh: PN 

16 thg 11, 2019

Ấn tượng thác Hang Dơi

Chư Mom Ray có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, đặc biệt là các thác nước hùng vĩ và thơ mộng trong rừng nguyên sinh. Sau các chuyến đi khám phá thác Bảy Tầng, thác Khỉ, thác Nàng Tiên, lần này, tôi quyết định đến thác Hang Dơi nằm sâu trong Vườn Quốc gia Chư Mom Ray. 

Tranh thủ thời điểm giao mùa, thời tiết không quá ẩm ướt và các suối nước chưa cạn kiệt, tôi quyết định lên đường khám phá thác nước Hang Dơi trong Vườn Quốc gia Chư Mom Ray. Chuyến đi của tôi được Ban Giám đốc Vườn Quốc gia Chư Mom Ray tạo điều kiện, cử cán bộ và mời các hộ nhận khoán bảo vệ vườn theo cùng để vừa đi tuần tra, vừa giới thiệu thác nước.

Đợi mặt trời lên, nắng ấm, gần 9h sáng, tôi có mặt tại Trạm Quản lý bảo vệ rừng của Vườn Quốc gia Chư Mom Ray tại xã Sa Nhơn, huyện Sa Thầy như đã hẹn. Lúc này, cán bộ, nhân viên và các hộ nhận khoán thôn Nhơn Bình trong chuyến đi có mặt đông đủ tại Trạm. Từ Trạm, chúng tôi đi xe gắn máy theo hướng xã Rờ Kơi và rẽ vào đường mòn men theo nương rẫy cao su, cà phê... của dân ở vùng đệm. Gửi xe tại nương rẫy cà phê, chúng tôi đi trên lối mòn nhỏ vào rừng.

10 thg 11, 2019

Nhà rông văn hóa huyện Sa Thầy: Nơi lưu giữ nhiều hiện vật văn hóa, lịch sử quý báu

Được xây dựng vào năm 1992, trên khu đất trung tâm của thị trấn Sa Thầy, nhà rông văn hóa huyện Sa Thầy là công trình văn hóa, biểu tượng cho sự gắn kết các dân tộc anh em sinh sống trên địa bàn huyện. Nơi đây còn được xem là một bảo tàng thu nhỏ vì đang lưu giữ, trưng bày hàng trăm hiện vật có giá trị về văn hóa, lịch sử của địa phương.

Nhà rông văn hóa huyện Sa Thầy từng là địa điểm tổ chức nhiều sự kiện văn hóa - chính trị quan trọng của huyện Sa Thầy. Năm 2008, nhà rông được tu sửa, nâng cấp để đảm nhận thêm chức năng trưng bày các hiện vật văn hóa truyền thống của các DTTS trên địa bàn, nhằm phục vụ cho công tác học tập, nghiên cứu, giới thiệu, quảng bá và bảo tồn các giá trị văn hóa các DTTS của địa phương.

Nhờ làm tốt công tác lưu giữ cùng sự đóng góp của nhiều cán bộ, nhân dân trên địa bàn huyện, hiện nay, ngoài các hiện vật về văn hóa truyền thống của các DTTS, nhà rông văn hóa huyện Sa Thầy còn trưng bày các bức ảnh, tranh, cổ vật, mô hình động vật hoang dã quý hiếm… với số lượng 458 hiện vật.


Nhà rông văn hóa huyện Sa Thầy, nơi đang trưng bày nhiều hiện vật có giá trị văn hóa lẫn lịch sử. Ảnh: ĐT 

Ngân mãi tiếng cồng chiêng Mơ Nâm

Cũng như đồng bào các DTTS khác trên vùng đất Tây Nguyên, tiếng cồng, tiếng chiêng như đã thấm sâu vào máu thịt, vào linh hồn người Mơ Nâm (một nhánh của dân tộc Xơ Đăng). Với họ, cồng chiêng không chỉ là một loại nhạc cụ mà còn là nét đẹp văn hóa được gìn giữ, lưu truyền bao đời nay; cồng chiêng hiện hữu trong đời sống hàng ngày, gắn liền với các tập tục, lễ hội…

Trong những chuyến công tác về Kon Plông, tôi rất hay được thưởng thức tiếng cồng, tiếng chiêng của đồng bào Mơ Nâm nơi đây. Những âm thanh trầm, bổng giữa đại ngàn Trường Sơn hoang sơ như hút hồn, đưa bước chân tôi tìm đến những nghệ nhân Mơ Nâm - chủ nhân của những âm thanh diệu kỳ.

Già A Vơng (thôn Kon Ke 1, thị trấn Măng Đen) là một người đã gắn bó cả đời với tiếng cồng, tiếng chiêng đã giúp tôi hiểu hơn về “đặc sản” này của người Mơ Nâm. Già chia sẻ, đối với nghệ thuật cồng chiêng, ở mỗi dân tộc sẽ có sự khác biệt. Người Mơ Nâm cũng vậy, cồng chiêng mang trong mình những nét đặc trưng riêng có. Thậm chí là cùng dân tộc Mơ Nâm, nhưng ở những vùng khác nhau, cách diễn tấu, nhịp điệu cũng có những khác biệt nhất định. Ở mỗi giai điệu, đòi hỏi người đánh cồng chiêng phải thể hiện được cái riêng, cái hồn của vùng đất đó…

Về Măng Ri

Măng Ri (huyện Tu Mơ Rông) được mệnh danh “xứ sở sương mù”, bởi khí hậu nơi đây quanh năm mát mẻ. Măng Ri không chỉ được biết đến là vùng căn cứ cách mạng của tỉnh trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người dân có truyền thống cách mạng kiên trung, anh dũng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ, mà ngày nay còn được biết đến như là “thủ phủ” của các loại dược liệu và là “vựa lúa” của vùng đất dưới chân núi Ngọc Linh hùng vĩ.

Thủ phủ của dược liệu


Đứng trên cao nhìn xuống, xã Măng Ri như hình một chiếc chảo lớn, 4 bề được bao quanh bởi dãy núi Ngọc Linh. Vùng đấy này nằm ở độ cao từ 1.200m-1.500m so với mực nước biển. Với địa hình “dựa vào núi” Ngọc Linh và có khi hậu khá mát mẻ nên Măng Ri được xem là vùng đất thuận lợi nhất để phát triển cây lúa nước và các loại cây dược liệu.

Từ lâu, mảnh đất Tu Mơ Rông được nhiều người biết đến là nơi của các loại dược liệu, trong đó sâm Ngọc Linh - một loại dược liệu đặc hữu quý ở nước ta chỉ có ở vùng rừng núi Ngọc Linh và theo đánh giá của các nhà khoa học thì sâm Ngọc Linh quý hơn cả sâm Hàn Quốc và sâm Mỹ, vì có chứa hợp chất saponin nhiều hơn gấp 2 đến 3 lần. Cây dược liệu có ở khắp các xã trong huyện Tu Mơ Rông nhưng Măng Ri chính là “thủ phủ” của sâm Ngọc Linh và các loại dược liệu.

19 thg 10, 2019

Nhớ hơ mon…

Là loại hình văn nghệ dân gian độc đáo, sử thi góp phần làm nên nét đẹp văn hóa của đồng bào các DTTS Tây Nguyên. Bây giờ, tuy không còn phổ biến như cồng chiêng, xoang hay các nhạc cụ truyền thống, song sử thi (tiếng Ba Na là hơ mon) vẫn được gìn giữ, tiếp nối niềm tự hào của thế hệ đi trước. Với hơ mon, gần cả cuộc đời, già A Lưu ở làng Kon Klor (xã Đăk Rơ Wa, thành phố Kon Tum) vẫn nhớ...

Đã lâu mới trở lại. Con đường nhỏ từ ngã ba trên trục đường chính của xã Đăk Rơ Wa rẽ vào nhà già A Lưu ngày trước lởm chởm sỏi đá, giờ đã được bê tông hóa phẳng lì. Chỉ có căn nhà nhỏ của gia đình ông ở chỗ thưa dân này thì vẫn vậy, có chăng là ngả màu cũ hơn. Vừa qua một trận ốm, già A Lưu chưa hết mệt mỏi. Mới đây, có đoàn quay phim của VTV về Kon K’tu mời già hát kể hơ mon nhưng đành phải từ chối.

Ông bảo “tiếc quá”, nhưng “lực bất tòng tâm”. Đã ngoài 80 rồi còn gì. Những cơn ho tức ngực, đau xương nhức cốt, run tay run chân… Lâu không hát kể, thấy nhớ hơ mon làm sao! Nghe hỏi về sử thi, mắt già sáng lên, cười móm mém. Bao nhiêu chất chứa trong lòng được dịp giãi bày.

29 thg 9, 2019

Đặc sắc luật tục của người H’rê ở làng Vi Ô Lăk

Ngày xưa, các dân tộc Tây Nguyên chủ yếu sống trong cộng đồng làng, làng là nơi sinh sống, bảo vệ mọi người khỏi những thiên tai, địch họa, ứng xử với các làng khác và giải quyết cả mâu thuẫn giữa các thành viên cộng đồng. Vì vậy, để “điều hành” việc làng, các làng đồng bào DTTS ở Tây Nguyên đều đề ra hệ thống luật tục (hay còn gọi lệ tục) của làng, mọi việc xảy ra trong làng do các già làng phán xử dựa trên các luật tục, không ai có quyền làm trái. Cũng như mọi làng đồng bào dân tộc tại chỗ ở Kon Tum, người H’rê ở làng Vi Ô Lăk, xã Pờ Ê (huyện Kon Plông) cũng đề ra luật tục của làng.

Luật tục của người H’rê ở làng Vi Ô Lăk được hình thành từ khát vọng của mỗi thành viên trong làng với mong muốn được sống ân nghĩa với các vị thần thiên nhiên và hài hòa với tất cả các thành viên trong cộng đồng. Luật tục của làng do người dân đặt ra và thực hiện, nhưng hội đồng già làng là những người đại diện cho dân làng đưa ra những phán quyết dựa trên luật lệ ấy để bảo vệ trật tự trong làng và sự phát triển của làng.

23 thg 9, 2019

Kho lúa của người Mơ Nâm ở Kon Plông

Những ngày này, người Mơ Nâm (một nhánh của dân tộc Xơ Đăng) ở các xã của huyện Kon Plông đang bước vào mùa thu hoạch lúa trên các cánh đồng ở quanh làng. Cách chân ruộng chừng hai mươi đến ba mươi mét, những kho lúa nằm trải dài trên khoảng đất trống nối nhau thẳng tắp, bên dưới là mảnh ruộng lúa chín đang chờ người thu hoạch... 

Kho lúa người Mơ Nâm ngày nay


Đưa chúng tôi đi trên con đường bê tông nông thôn mới để ra cánh đồng lúa chín cách nhà khoảng 2km, chị Y Đăng ở thôn Kon Vơn Ke 2 (xã Đăk Long) giới thiệu: Do địa hình đất đai ở đây hơi gồ ghề, nhiều đồi dốc nhỏ nên bà con thường làm ruộng lúa quanh các khe suối. Em nhìn xuống phía dưới thung lũng có diện tích ruộng nhỏ bằng phẳng kia kìa. Ở đây, nhìn xa thấy bé bằng cái sân nhà rông, nhưng chị em mình tới gần thì rộng mênh mông chừng 3 đến 4ha...

Trống của người Gia Rai

Người Gia Rai có một kho tàng âm nhạc rất phong phú và đa dạng. Bên cạnh các loại nhạc cụ truyền thống như đàn t’rưng, đàn ting ning, đàn goong, đàn k’ny, khèn lá, sáo, chiêng…, thì trống là một loại nhạc cụ được người Gia Rai đặc biệt coi trọng. Với người Gia Rai, trống được xem là vật thiêng. Trống có vị trí đặc biệt chẳng những về giá trị vật chất mà cả về giá trị tinh thần trong đời sống sinh hoạt của người Gia Rai…

Từ bao đời nay, người Gia Rai ở làng Chốt (thị trấn Sa Thầy, huyện Sa Thầy) luôn quan niệm rằng, âm thanh phát ra từ trống mang sức mạnh siêu nhiên, là vũ khí để xua đuổi ma quỷ hay những hiện tượng tự nhiên mà trước đây người dân chưa hiểu được và cho rằng đó là điềm gở (như nhật thực hoặc nguyệt thực…). Người Gia Rai xem trống là vật thiêng mang yếu tố tín ngưỡng tâm linh nên họ rất quý trọng, giữ gìn trống và cất giữ ở nơi trang trọng nhất trong nhà.

Trống của người Gia Rai ở làng Chốt có 2 loại, trống To có chiều dài thân trống (tang trống) hơn 60cm, đường kính mặt trống hơn 40cm và trống Nhỏ có chiều dài thân trống hơn 40cm, đường kính mặt trống hơn 20cm. Mặt trống được làm từ da trâu hoặc da bò. Thân trống được làm từ thân cây bò ma, đây là loại cây to, thân mềm, không bị mối mọt và nứt.


Đối với người Gia Rai ở làng Chốt, trống vừa là tài sản quý, vừa là vật linh thiêng. Ảnh: ĐT 

7 thg 9, 2019

Đình làng cổ giữa lòng phố núi Kon Tum

Nhắc đến hai tiếng Kon Tum, nhiều người con đi xa thường nhớ về một Làng Hồ thơ mộng nằm bên dòng sông Đăk Bla chảy ngược với tiếng cồng, tiếng chiêng trải dài mênh mang và những mái nhà rông cao vút… Nhưng, ít ai biết rằng, ngay giữa lòng phố núi ấy còn lưu giữ những nét văn hóa mộc mạc của làng quê đồng bằng vốn gắn liền với cây đa, bến nước, sân đình… Qua bao nhiêu thăng trầm của thời gian và biến cố của lịch sử, nhiều đình làng cổ ở Kon Tum vẫn được người dân nơi đây giữ gìn và lưu truyền cho hậu thế.

Theo phong tục của những người dân miền xuôi, đình làng vốn là nơi thờ thành hoàng làng, hoặc việc thờ cúng các vị thần theo sắc phong của vua chúa thời phong kiến. Đình làng còn là ngôi nhà lớn của cộng đồng, là nơi hội họp, tế lễ của làng. Vì vậy, đình làng đã trở thành một nơi thân quen gần gũi, là nơi che chở, là điểm tựa tâm linh của những người dân làng quê Việt Nam.


Để tiếng cồng chiêng ở làng Kon Drei mãi âm vang

Cồng chiêng gắn liền với đời sống văn hóa, tâm linh và là linh hồn trong mọi hoạt động lễ hội từ bao đời nay của đồng bào các DTTS trên địa bàn tỉnh nói chung và dân tộc Ba Na nói riêng. Để âm vang tiếng cồng chiêng nối dài mãi trong các lễ hội của cộng đồng làng, trong các nghi lễ vòng đời của người Ba Na; suốt mấy năm qua, người Ba Na ở làng Kon Drei (xã Đăk Blà, thành phố Kon Tum) đã bảo ban, truyền dạy cho nhau nghệ thuật cồng chiêng nhằm giữ gìn những giá trị văn hóa đặc sắc của cộng đồng dân tộc nơi đây.

Làng Kon Drei nép mình bên dòng Đăk Bla hiền hòa. Giữa làng, nhà rông được làm theo đúng nguyên mẫu truyền thống của dân tộc Ba Na với mái tranh cao vút, sừng sững như một lưỡi rìu vươn lên trời. Chống đỡ cho nhà rông trước những khắt nghiệt, giông bão là những hàng cột gỗ cao to, vách thưng bằng lồ ô… Nhà rông này được dân làng phục dựng đầu năm 2018. Và, mấy năm nay, khoảng sân rộng rãi trước nhà rông luôn rộn ràng tiếng trống, tiếng cồng chiêng và nối vòng xoang vào những tối thứ bảy, chủ nhật trong những tháng hè hay những dịp làng có lễ hội và tổ chức các sự kiện trọng đại.

26 thg 8, 2019

Con trâu trong đời sống của người Hrê ở Pờ Ê

Từ bao đời nay, trong mọi cuộc tế lễ cúng Yàng (trời) của người Hrê ở làng Vi Ô Lăk (xã Pờ Ê, huyện Kon Plông), vật hiến sinh lớn nhất, quý nhất là con trâu. Bởi đối với người dân ở đây, con trâu là vật nuôi không chỉ có giá trị kinh tế cao mà còn mang giá trị tinh thần…
Người Hrê có mặt trên vùng đất Kon Tum từ rất lâu đời. Nhiều người lớn tuổi trong làng Vi Ô Lăk cho biết, họ được nghe các thế hệ cha ông kể lại, trước đây một nhóm người Hrê ở tỉnh Quãng Ngãi đã di cư lên Kon Tum tìm vùng đất mới để sinh cơ lập nghiệp. Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, một số cán bộ cách mạng là người Hrê ở Quảng Ngãi lên vùng Kon Tum hoạt động đến ngày giải phóng cũng ở lại sinh sống và làm việc. Ngoài ra, nhiều thanh niên nam, nữ tới Kon Plông làm ăn, lập gia đình rồi định cư ở đây… Tất cả tạo nên cộng đồng người Hrê như bây giờ.

15 thg 8, 2019

Giữ nghề làm gốm truyền thống của người Ba Na

Ngồi bên nhà sàn, các chị Y Khel và Y Pư (xã Đăk Tờ Re, huyện Kon Rẫy) tỉ mỉ nặn từng chiếc nồi làm bằng đất sét để nấu cơm, đựng nước. Đôi bàn tay khéo léo của các chị cứ thoăn thoắt quay tròn quanh chiếc nồi để tạo độ bóng. Các chị bảo, để nặn được một chiếc nồi như vậy phải mất vài ngày mới xong - đó là chưa kể thời gian chuẩn bị nguyên liệu mất cả tháng liền. Tuy kỳ công, nhưng đây là nét văn hóa truyền thống của đồng bào Ba Na (Jơ Lâng) nên các chị cố gắng giữ nghề để lưu truyền lại cho con cháu. 

Còn nhớ, cách đây không lâu, tại sự kiện Tuần Văn hóa - Du lịch tỉnh lần thứ 4 năm 2018, nghệ nhân làm gốm Y Pư (1966) và Y Khel (1969) đã mang đến cho du khách một sự trải nghiệm thú vị về nghề truyền thống này. Nhiều em học sinh rất thích thú khi được các nghệ nhân cho mượn nguyên liệu đất sét để trực tiếp thử nghiệm. Thấy các em nhỏ hào hứng, chị Y Pư và Y Khel càng có động lực chế tác nhiều sản phẩm hơn nữa để phục vụ du khách tham quan được nhìn ngắm và mua sắm.

Tháng bảy, về thăm lại ngục Đăk Glei

Ngục Đăk Glei được Bộ Văn hoá - Thông tin công nhận Di tích lịch sử tại Quyết định số 2307/QĐ-VHTT ngày 30/12/1991. Gần 20 năm sau, Dự án đầu tư xây dựng công trình tu bổ, tôn tạo di tích được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 1164/QĐ-UBND ngày 28/10/2011 với tổng mức đầu tư trên 35,456 tỷ đồng. Sau khi hoàn thành và đưa vào sử dụng cho đến nay, dự án được đánh giá đầu tư khá kiên cố, có tính thẩm mỹ cao, cơ bản tái hiện được nguyên mẫu Ngục Đăk Glei do thực dân Pháp xây dựng vào năm 1932.

Đong đầy cảm xúc 


Chiếc xe 7 chỗ của Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện Đăk Glei chở chúng tôi đi từ UBND huyện đến Ngục Đăk Glei đúng vào ngày đầu tháng Bảy, bầu trời trong xanh và nhiều đám mây bàng bạc. Tuyến đường, được trải nhựa hoặc đổ bê tông phẳng lỳ nên xe đi rất nhẹ nhàng và nhanh chóng.

Đến đoạn từ Tỉnh lộ 673 lên Ngục Đăk Glei dài chừng 3km, đường rất quanh co và dốc đứng. Hai bên đường là những vườn cà phê catimo, bời lời... của bà con đồng bào dân tộc Xơ Đăng ở làng Đăk Lây, xã Đăk Nhoong xanh tốt, nép mình dưới những cánh rừng già xa xa ôm lấy khu Di tích.

6 thg 8, 2019

Đội cồng chiêng làng Kon Pring

Đến thăm Làng văn hóa du lịch cộng đồng Kon Pring (xã Đăk Long, huyện Kon Plông) vào một buổi chiều cuối tháng 6/2019, tôi gặp chị Y Lim cùng 2 cô gái trẻ Y Vứt và Y Nhúa đang náo nức chuẩn bị biểu diễn chiêng xoang phục vụ đoàn khách du lịch sắp tới…

Chiều muộn. Những đám mây ùn ùn kéo đến, phủ lên những đồi thông. Ánh nắng mặt trời chỉ còn le lói trên đỉnh nhà rông của Làng văn hóa du lịch cộng đồng Kon Pring.

Dù có vẻ thấm mệt sau một ngày làm rẫy vất vả, nhưng trên gương mặt của 3 người vẫn tràn ngập niềm vui. Y Lim vừa giúp Y Vứt chỉnh lại trang phục vừa phấn khởi nói: Đến nay thì mọi người đã quen dần với việc làm du lịch, khi mà khách đến tham quan Làng văn hóa du lịch cộng đồng Kon Pring ngày càng nhiều.

Vài năm trở lại đây, ngoài việc lên rẫy, mỗi thành viên đội cồng chiêng ở Kon Pring còn có thêm nguồn thu nhập 3 - 5 triệu đồng/tháng từ việc làm du lịch, nhờ đó cuộc sống của các gia đình cũng được cải thiện - Y Nhúa nhỏ nhẹ kể.


Chị Y Lim (ngoài cùng bên trái) đang trang điểm cùng Y Vứt và Y Nhúa. Ảnh: ĐT 

Nghề rèn của người Xơ Đăng ở Măng Ri

Đối với đồng bào Xơ Đăng ở xã Măng Ri (huyện Tu Mơ Rông) nghề rèn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những vật dụng rèn ra, như cuốc, dao, liềm, bên cạnh để phục vụ lao động sản xuất, sinh hoạt cho gia đình, bà con còn bán hoặc đổi lấy cây sâm Ngọc Linh giống về trồng. Cứ thế, qua thời gian, nhờ nghề rèn, cuộc sống nhiều hộ gia đình dần trở nên khấm khá hơn…

Sáng sớm vào Pu Tá - ngôi làng nằm trên sườn núi, được bao quanh bởi những ruộng lúa bậc thang đang dần chín vàng- tôi gặp ông A Hình (63 tuổi), một trong những thợ rèn lâu năm của làng.

Hôm nay ông A Hình nghỉ đi rẫy, ở nhà để rèn tiếp lưỡi dao và lưỡi rìu mà ông đang rèn dở mấy hôm nay. Thấy ông chuẩn bị dụng cụ để rèn, cháu ngoại là A Thiện (13 tuổi) cũng ra phụ giúp.

Dù tuổi còn nhỏ nhưng A Thiện đã biết lấy củi để nhóm bếp lửa nung sắt. Từ đống củi được chất gọn gàng ở góc bếp, cậu bé lấy củi thông và củi dẻ lần lượt đưa cho ông của mình. Đã thành thói quen, hai ông cháu vừa làm vừa ngâm nga: 


“Củi thông khi cháy lửa to
Củi dẻ khi cháy sẽ cho than nhiều”