2 thg 12, 2013

Chùa cổ trên đất Long Tuyền

Hồ sen bán nguyệt trước sân chùa Hội Linh. 

Trong nhóm chùa cổ ở đất Long Tuyền, ngoài Nam Nhã Đường còn có Hội Linh cổ tự, xây dựng vào năm Đinh Mùi năm 1907 và Long Quang cổ tự, do thiền sư Thiện Quyền lập vào năm Minh Mạng thứ 5 tức năm Giáp Thân (1824), đến nay gần 190 năm.

Long Quang cổ tự

Chùa Long Quang nằm bên bờ sông Bình Thủy; tọa lạc tại số 155/6, khu vực Bình Chánh, thuộc phường Long Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.


Tam quan chùa Long Quang. 

Lúc đầu, chùa chỉ là một am nhỏ dựng bằng cây, lá, đến năm 1829, được trùng tu lại thành một ngôi chùa kiên cố. Trong khoảng thời gian này chùa được đặt tên là Long Trường với ý nguyện của thiền sư là mong cầu ngôi chùa được vững bền. Sau khi thiền sư Thiện Quyền qua đời, nhà sư Quảng Hiền vận động Phật tử góp công, góp của xây dựng chùa mới và đổi tên thành Long Quang tự - vừa là nơi tu hành, vừa bốc thuốc chữa bệnh và dạy chữ cho người dân nên được nhiều người biết đến.

Năm 1930, một lần nữa chùa lại được sự ủng hộ của các Phật tử và được xây dựng lại. Lần này chùa được xây bằng tường gạch, mái lợp ngói, gồm một ngôi chánh điện rộng ba gian và một nhà bếp.

Tháng 9 năm 1945, quân viễn chinh Pháp trở lại Việt Nam lần thứ hai. Chùa Long Quang trở thành cơ sở bí mật của các hoạt động chống Pháp. Năm 1947, hưởng ứng lời kêu gọi tiêu thổ kháng chiến, trụ trì chùa lúc bấy giờ là thiền sư Trí Thới cùng với tăng chúng tháo dỡ toàn bộ nhà chùa để làm vật cản, ngăn tàu Pháp tại vùng Rạch Cam.

Năm 1963, chùa được xây cất lại trên nền đất cũ. Khi công trình gần xong, lại bị bom đạn chiến tranh làm hư hại nhiều nên phải xây lại. Đến năm 1966, ngôi chánh điện mới được xây xong. Thời kỳ chiến tranh sau đó, chùa Long Quang vẫn là cơ sở cách mạng ở Cần Thơ.

Ngày 21 tháng 6 năm 1993, chùa Long Quang đã được công nhận là di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 774-QĐ/BT của Bộ Văn hóa-Thông tin. 

Ngày 21 tháng 6 năm 1993, chùa Long Quang đã được công nhận là di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 774-QĐ/BT của Bộ Văn hóa-Thông tin.
Qua hai giai đoạn chiến tranh khốc liệt, điều đáng quý là Long Quang cổ tự còn bảo tồn được bộ tượng thờ bằng gỗ giáng hương gồm 50 pho được nhà sư Từ Quang cho tạc từ năm 1922. Trong đó, đặc biệt hơn cả là bộ Thập bát La hán - mỗi tượng cao 80 cm, được chạm khắc và đục đẽo từ một một khối gỗ nguyên. Đó là các tác phẩm do một nhóm nghệ nhân điêu khắc, đứng đầu là ông Tài Công Kiểm, người ở Cần Thơ, thực hiện.

Chùa Long Quang nằm bên bờ rạch Long Tuyền xưa (nay là rạch Bình Thủy), trên diện tích khoảng 
7.000 m
². Con đường vào chùa đã được trải nhựa, xe 16 chỗ có thể vào được. Tam quan được xây bằng gạch với hai tầng mái ngói, đầu mái uốn công có gắn hoa văn. Bên trên nóc có gắn đôi rồng trắng ngẩng cao đầu quay ngược vào bánh xe luân hồi ở giữa. Hai cột chính có đôi hai câu liễn đối bằng chữ Hán.

Bên trong chánh điện chùa Long Quang. 

Ngôi chánh điện xây theo lối kiến trúc "Thượng lầu, hạ hiên" rộng 324 m², với mái ngói và tường gạch, có hai cửa trước, một cửa sau và hai cửa ở hai bên hông. Giữa điện thờ chính, có treo bức hoành phi bằng gỗ chạm bốn chữ Hán “Đại hùng bảo điện”, bên dưới gắn khung bao lam chạm trổ hoa văn tinh xảo thếp vàng. Điện thờ chính bằng gỗ có hai bậc; bậc trên thờ tam thế Phật: A Di Đà Phật, Đại Thế Chí Bồ tát và Quan Thế Âm Bồ tát, tượng bằng gỗ cao hơn một mét theo tư thế ngồi. Bậc dưới thờ Phật Di Lặc.

Hai bên vách là kệ dài, đặt 18 tượng La hán bằng gỗ đã gần trăm năm tuổi. Kế tiếp bàn thờ Địa Tạng Bồ tát, phía sau là bàn thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, hai bên có Nam Tào, Bắc Đẩu; hai bên bàn thờ Quan Thế Âm Bồ tát có Thiên Tài và Đồng Tử.

Phía sau điện thờ chính là bàn thờ Hậu Tổ. Phía trên là tượng Phật Mẫu Chuẩn Đề, bên dưới có tượng Bồ Đề Đạt Ma. Chung quanh bày trí các long vị, các bức di ảnh của các cố trụ trì chùa. Sát vách hai bên cửa sau có đặt hai bàn thờ, bên phải thờ các tượng Quan Công, Giám Trai Sứ Giả và Thập Điện Minh Vương.

Phía sau tòa nhà chính điện là khu đất rộng trồng nhiều hoa kiểng, khu tháp nơi chứa di cốt của các cố trụ trì chùa trước đây.

Hội Linh Cổ Tự

Cổng chùa Hội Linh. 

Chùa Hội Linh thuộc hệ phái Bắc tông, dòng Thiền Tông Lâm Tế, tọa lạc trên diện tích 6.500 m² tại số 314/36 đường Cách Mạng Tháng Tám, thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

Hội Linh cổ tự được Bộ Văn hóa Thông Tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia theo quyết định ngày 21 tháng 6 năm 1993.
Chùa Hội Linh được xây dựng vào năm Đinh Mùi (1907), đến nay đã hơn một thế kỷ. Ban đầu chùa được cất đơn sơ với cột bằng cây, vách và mái lợp lá, quay mặt ra hướng sông Hậu, được đặt tên là Hội Long tự. Vì chùa nằm ở ngọn một con rạch nhỏ nên dân gian thường gọi tên là chùa Xẻo Cạn. Trong thời kỳ chiến tranh từ năm 1941 đến 1975 chuà Hội Linh còn là căn cứ cách mạng ở Cần Thơ.

Mặt trước chánh điện chùa Hội Linh thờ tượng tam thế Phật trên tầng lầu. 

Từ trung tâm thành phố, đi theo đường Cách Mạng Tháng Tám khoảng 2km, rẽ phải chừng 200 mét là đến chùa. Phía bên phải tam quan, chúng ta nhìn thấy một bia khắc ghi lịch sử chùa. Tuy đã được xây dựng lại nhưng tam quan vẫn mang vẻ cổ kính, dưới tán hai cây bồ đề to cao được trồng hai bên. Dãy tường rào hình cánh cung đưa cổng chính nhô ra phía trước. Hai bên có hai cổng phụ. Trên mỗi cổng chính và phụ đều có hai câu đối bằng chữ Hán đắp nổi. Trên mái cổng chính có gắn lưỡng long tranh châu bằng đất nung màu xanh.

Sau cổng chính là ao sen bán nguyệt. Hai bên ao trồng dương liễu rũ nhánh. Giữa ao có tượng Quan Thế Âm Bồ tát lộ thiên. Bên trái có hai bảo tháp to cao hơn 10 mét là nơi yên nghỉ của các vị trụ trì. Hai bên ao trước chánh điện có hai miếu nhỏ, bên trái là miếu Ngũ Hành, bên phải là miếu Thổ thần.

Bên trong chánh điện chùa Hội Linh. 

Chánh điện có mặt tiền ba gian, trên lầu ngay mặt tiền có tam thế Phật, gồm tượng Phật A Di Đà ở giữa, bên phải là tượng Đại Thế Chí Bồ tát, bên trái tượng Quan Thế Âm Bồ tát. Trên mái chia làm ba nóc được lợp bằng vật liệu xi măng đúc thành hình vảy cá, nóc giữa mái tạo dáng tròn cạnh lục giác, trên đỉnh là hình búp sen. Hai nóc hai bên đỉnh là bầu rượu, mái tạo hình phẳng cạnh tứ giác uốn cong lên. Ngôi chánh điện rộng 288 m², nóc cao hơn 9 mét, có hai cửa chính đi vào, chia thành ba gian. Bên trong là ba điện thờ trung tâm, có treo ba bức hoành phi khắc bằng chữ Hán ở giữa là “Hội Linh Tự”, bên trái “Tam vô tư địa”, bên phải “Thưởng thiện phạt ác”.

Điện thờ chính ở giữa thờ Phật A Di Đà ngồi trên tòa sen (cao 1,5 mét). Điện bên trái, thờ Đại Thế Chí Bồ tát thếp vàng; điện bên phải, thờ Quan Thế Âm Bồ tát, cũng thếp vàng. Bàn phía dưới trước điện chính là pho tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn chiều dài khoảng 1,5 mét.

Chân cột chánh điện bằng gỗ kê trên nền đá có cẩn cánh sen. 

Ngoài ra chung quanh mỗi điện có đặt nhiều tượng Phật như tượng Phật Địa Tạng cưỡi Kỳ Lân, các vị Kim Cang, tượng phán quan… Đối diện với nghi điện chính là bàn thờ Phật Thích ca đặt chung với hai ông Thiện, ông Ác đứng hai bên. Hai bên góc chánh điện đặt chiếc trống lớn và chuông bát nhã. Ở giữa chánh điện là tháp đèn Dược Sư có 49 ngọn đèn.

Phía sau điện thờ chính là gian thờ Hậu Tổ. Ở giữa, đặt tượng thờ Đức Tổ Sư Lạt Ma. Nối tiếp chánh điện, gian thứ hai rộng 144 m² là bàn thờ tổ quốc và các vị trụ trì qua từng giai đoạn. Gian này còn được dùng làm nơi tiếp khách. Gian thứ ba là giảng đạo đường là thuyết pháp trong những ngày lễ lớn.

Bài: Lâm Văn Sơn - Ảnh: Kim Dung

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét