Tên gọi của nhà thờ là “Mằng Lăng” nghe khá độc đáo và cũng có nguồn gốc của nó. Hơn 100 năm trước, khu vực An Thạch dân cư thưa thớt, cây rừng che kín cả lối đi, trong đó có một loài cây mọc rất nhiều, to lớn, tán phủ rộng, lá cây hình bầu dục, hoa chùm, nở ra màu tím hồng, được người dân trong vùng gọi là Mằng Lăng. Dấu vết khu rừng Mằng Lăng ấy giờ không còn nhưng nhà thờ vào thời điểm đó đã được đặt tên theo loại cây quý này. Trong nhà thờ hiện còn giữ một chiếc bàn mặt tròn làm bằng gỗ Mằng Lăng từ thuở vừa xây dựng, có đường kính đến 1,5m.
16 thg 2, 2013
Nhà thờ Mằng Lăng
Đến với vùng đất “núi Nhạn - sông Đà”, hẳn ai cũng muốn ghé thăm nhà thờ Mằng Lăng để tận hưởng cảm giác bình yên giữa chốn thánh đường. Nhà thờ được xây dựng vào năm 1892, do một vị linh mục người Pháp tên Joseph de La Cassagne mà người dân xứ đạo tại đây gọi tên theo tiếng Việt là Cổ Xuân phụ trách thi công.
Tên gọi của nhà thờ là “Mằng Lăng” nghe khá độc đáo và cũng có nguồn gốc của nó. Hơn 100 năm trước, khu vực An Thạch dân cư thưa thớt, cây rừng che kín cả lối đi, trong đó có một loài cây mọc rất nhiều, to lớn, tán phủ rộng, lá cây hình bầu dục, hoa chùm, nở ra màu tím hồng, được người dân trong vùng gọi là Mằng Lăng. Dấu vết khu rừng Mằng Lăng ấy giờ không còn nhưng nhà thờ vào thời điểm đó đã được đặt tên theo loại cây quý này. Trong nhà thờ hiện còn giữ một chiếc bàn mặt tròn làm bằng gỗ Mằng Lăng từ thuở vừa xây dựng, có đường kính đến 1,5m.
Tên gọi của nhà thờ là “Mằng Lăng” nghe khá độc đáo và cũng có nguồn gốc của nó. Hơn 100 năm trước, khu vực An Thạch dân cư thưa thớt, cây rừng che kín cả lối đi, trong đó có một loài cây mọc rất nhiều, to lớn, tán phủ rộng, lá cây hình bầu dục, hoa chùm, nở ra màu tím hồng, được người dân trong vùng gọi là Mằng Lăng. Dấu vết khu rừng Mằng Lăng ấy giờ không còn nhưng nhà thờ vào thời điểm đó đã được đặt tên theo loại cây quý này. Trong nhà thờ hiện còn giữ một chiếc bàn mặt tròn làm bằng gỗ Mằng Lăng từ thuở vừa xây dựng, có đường kính đến 1,5m.
Dinh vua Mèo Hoàng A Tưởng
Xưa kia, Hoàng Yến Chao, người dân tộc Tày, là thổ ti cai trị xứ Bắc Hà (tỉnh Lào Cai), dân trong vùng quen gọi là "Vua Mèo" đã cho xây dựng dinh thự tại châu Bắc Hà để khẳng định uy quyền và sự giàu của mình. Gần 100 năm trôi qua, dinh Vua Mèo vẫn đứng sừng sững giữa bao la núi đồi, trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng của Bắc Hà.
Khởi công năm 1914 song đến năm 1921 dinh Vua Mèo mới được hoàn thành. Chủ nhân của đinh là cha con Hoàng Yến Chao, Hoàng A Tưởng. Hoàng A Tưởng cũng là một thổ ti ở Bắc Hà cho đến ngày Lào Cai được giải phóng. Vì thế, ngoài cái tên dinh vua Mèo, người ta còn gọi đây là dinh Hoàng A Tưởng.
Tương truyền, dinh thự vua Mèo Hoàng A Tưởng đươc thầy Tàu về xem thế đất theo phong thủy. Dinh tọa lạc trên một quả đồi rộng ở châu Bắc Hà, nay là trung tâm thị trấn huyện Bắc Hà, phía sau và hai bên đều có núi, phía trước có một dòng suối uốn lượn và có núi thế mẹ bồng con. Thế đất "tựa sơn đạp thủy" vững chãi, với mong muốn dòng họ được quyền quý, con cháu đời sau vinh hiển. Khu dịnh thự vua Mèo đã đạt đến trình độ thiết kế tinh xảo và nổi lên với quy mô đồ sộ tại vùng núi cao xa xôi, hùng vĩ như Bắc Hà.
Khởi công năm 1914 song đến năm 1921 dinh Vua Mèo mới được hoàn thành. Chủ nhân của đinh là cha con Hoàng Yến Chao, Hoàng A Tưởng. Hoàng A Tưởng cũng là một thổ ti ở Bắc Hà cho đến ngày Lào Cai được giải phóng. Vì thế, ngoài cái tên dinh vua Mèo, người ta còn gọi đây là dinh Hoàng A Tưởng.
Tương truyền, dinh thự vua Mèo Hoàng A Tưởng đươc thầy Tàu về xem thế đất theo phong thủy. Dinh tọa lạc trên một quả đồi rộng ở châu Bắc Hà, nay là trung tâm thị trấn huyện Bắc Hà, phía sau và hai bên đều có núi, phía trước có một dòng suối uốn lượn và có núi thế mẹ bồng con. Thế đất "tựa sơn đạp thủy" vững chãi, với mong muốn dòng họ được quyền quý, con cháu đời sau vinh hiển. Khu dịnh thự vua Mèo đã đạt đến trình độ thiết kế tinh xảo và nổi lên với quy mô đồ sộ tại vùng núi cao xa xôi, hùng vĩ như Bắc Hà.
Dinh Hoàng A Tưởng được hoàn thành từ năm 1921.
Đến Hồ Cốc thư giãn và lắng nghe
Hồ Cốc có nhiều tảng đá nằm dọc bãi biển tạo nên sự khác biệt với các bãi biển khác. Ảnh: Phúc Minh
Biển Hồ Cốc là điểm du lịch nghỉ dưỡng, dã ngoại lý tưởng, chỉ cách TPHCM 175 km, khoảng 3 giờ đường bộ. So với các điểm tham quan du lịch khác ở Bà Rịa – Vũng Tàu, Hồ Cốc hấp dẫn bởi nét hoang sơ, bãi tắm xa khu dân cư và không đông đúc như các bãi biển khác.
Con đường dẫn đến biển Hồ Cốc quanh co dưới những tán rừng thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên rừng Bình Châu – Phước Bửu. Suốt quãng đường vào Hồ Cốc khí hậu mát dịu, không khô rát như những vùng đất giáp biển khác. Chiều thứ Sáu, nhưng khách đến đây không đông lắm...
Nghề dệt thổ cẩm của người Pà Thẻn
Nhờ bàn tay khéo léo, tài hoa, các bà, các chị dân tộc Pà Thẻn đã dệt lên những tấm áo, chiếc váy xòe cầu kỳ và độc đáo, tạo nên vẻ đẹp đặc trưng của phụ nữ Pà Thẻn trên cao nguyên đá Hà Giang.
Lâu nay, phụ nữ dân tộc Pà Thẻn luôn tự hào về bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình. Niềm vui, tự hào ấy được nhân lên khi Hợp tác xã dệt thổ cẩm truyền thống bản My Bắc (xã Tân Trịnh, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang) được thành lập với mục đích bảo tồn nghề dệt thổ cẩm truyền thống.
Lâu nay, phụ nữ dân tộc Pà Thẻn luôn tự hào về bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình. Niềm vui, tự hào ấy được nhân lên khi Hợp tác xã dệt thổ cẩm truyền thống bản My Bắc (xã Tân Trịnh, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang) được thành lập với mục đích bảo tồn nghề dệt thổ cẩm truyền thống.
Bản My Bắc thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu những nét văn hóa đặc sắc của người Pà Thẻn.
Lăng Hoàng Gia
Ở xã Long Hưng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang có một quần thể công trình kiến trúc cổ khá độc đáo, đó chính là lăng Hoàng Gia, nơi yên nghỉ của những người thuộc dòng họ Phạm Đăng, một dòng họ nổi tiếng ở Nam Bộ vào thế kỉ XVIII, XIX. Đặc biệt, tại đây có ngôi mộ của Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng, ông ngoại của vua Tự Đức.
Dòng họ Phạm Đăng từ Quảng Ngãi vào Gò Công lập nghiệp bắt đầu từ ông Phạm Đăng Dinh, một nhà nho vừa dạy học cho dân trong vùng, vừa khai khẩn đất đai giồng Sơn Quy để khai cơ lập nghiệp.
Chuyện kể rằng, vào một đêm mưa to gió lớn, có một người khách lạ ghé vào nhà ông Dinh xin bữa ăn và ở nhờ qua đêm. Vốn thương người và hiếu khách, ông Dinh tiếp đãi khách rất thịnh soạn. Hôm sau, khi ra đi, vị khách cảm kích nên cho ông Dinh biết mình là một thầy địa lí đang đi tìm long mạch. Để tạ ơn, vị khách mách bảo cho ông Dinh biết Gò Rùa, gò đất có dáng khom khom như cái mai rùa, là mảnh đất tốt, nếu dùng làm nơi an táng thân phụ, về sau con cháu sẽ được hưởng lộc rất lớn.
Nghe vậy, ông Dinh sai con trai là Phạm Đăng Long quay về Quảng Ngãi mang hài cốt ông nội là Phạm Đăng Tiên vào táng tại Gò Rùa. Năm 1796, cháu nội ông Dinh là Phạm Đăng Hưng, sinh năm 1764, thi đỗ Tam trường tại trường thi Gia Định.
Dòng họ Phạm Đăng từ Quảng Ngãi vào Gò Công lập nghiệp bắt đầu từ ông Phạm Đăng Dinh, một nhà nho vừa dạy học cho dân trong vùng, vừa khai khẩn đất đai giồng Sơn Quy để khai cơ lập nghiệp.
Chuyện kể rằng, vào một đêm mưa to gió lớn, có một người khách lạ ghé vào nhà ông Dinh xin bữa ăn và ở nhờ qua đêm. Vốn thương người và hiếu khách, ông Dinh tiếp đãi khách rất thịnh soạn. Hôm sau, khi ra đi, vị khách cảm kích nên cho ông Dinh biết mình là một thầy địa lí đang đi tìm long mạch. Để tạ ơn, vị khách mách bảo cho ông Dinh biết Gò Rùa, gò đất có dáng khom khom như cái mai rùa, là mảnh đất tốt, nếu dùng làm nơi an táng thân phụ, về sau con cháu sẽ được hưởng lộc rất lớn.
Nghe vậy, ông Dinh sai con trai là Phạm Đăng Long quay về Quảng Ngãi mang hài cốt ông nội là Phạm Đăng Tiên vào táng tại Gò Rùa. Năm 1796, cháu nội ông Dinh là Phạm Đăng Hưng, sinh năm 1764, thi đỗ Tam trường tại trường thi Gia Định.
Nhà thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng từng là nơi ở của Thái hậu Từ Dũ từ lúc nhỏ cho đến khi ra Huế nhập cung vào năm lên 14 tuổi.
15 thg 2, 2013
Sài Gòn ăn vặt
Từ lâu, sở thích ăn vặt, thưởng thức thực phẩm trên vỉa hè, trong những quán nhỏ trên đường phố... đã trở thành một nét văn hóa đặc trưng của người Sài Gòn. Rất nhiều khách nước ngoài tới Việt Nam du lịch đều bị thu hút bởi những quán ăn hè phố.
Không ít tờ báo nước ngoài coi đây là một nét văn hóa đặc sắc của người Việt mà hiếm nơi nào trên thế giới có được. Trang báo CNNgo từng viết: “Nước Mỹ đã sinh ra những nhà hàng di động, nhưng Việt Nam mới là thiên đường đồ ăn đường phố. Không đâu lại có văn hóa đồ ăn đa dạng như nơi này”.
Không ít tờ báo nước ngoài coi đây là một nét văn hóa đặc sắc của người Việt mà hiếm nơi nào trên thế giới có được. Trang báo CNNgo từng viết: “Nước Mỹ đã sinh ra những nhà hàng di động, nhưng Việt Nam mới là thiên đường đồ ăn đường phố. Không đâu lại có văn hóa đồ ăn đa dạng như nơi này”.
Sài Gòn xưa trong mắt người nước ngoài
“Nhà cửa rộng lớn
thích hợp với phong thổ… Phố xá ngay hàng thẳng lối hơn là ở nhiều kinh
thành châu Âu… Chúng tôi có cảm giác tốt đẹp về phong tục và cử chỉ của
người dân. Sự ân cần, rộng lượng, lòng hiếu khách mà chúng tôi đã gặp
vượt rất xa tất cả những gì từ trước đến nay chúng tôi đã thấy ở các
nước châu Á”.
Đó
là nhận xét của bác sĩ Finlayson trong phái bộ Anh đến Sài Gòn năm
1822. Đặc biệt, không chỉ ông mà nhiều nhà hàng hải nước ngoài khác cũng
có thái độ rất trân trọng về thành phố mới này.
Ngày xuân, bên tách trà nóng, nhắc chuyện xưa để suy nghĩ, dự cảm tương lai…
Voi trên phố Sài Gòn xưa
Ngày xuân, bên tách trà nóng, nhắc chuyện xưa để suy nghĩ, dự cảm tương lai…
Kì vĩ thác Dray Nur
Khi đến với thành phố cao nguyên Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, du khách yêu thích khám phá thiên nhiên không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thơ mộng và bí ẩn của ngọn thác hùng vĩ nhất Tây Nguyên: thác Dray Nur.
Cách Tp. Buôn Mê Thuột khoảng 30 km theo hướng về Tp. Hồ Chí Minh, thác Dray Nur có chiều dài 250m, nối liền địa bàn hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Từ độ cao hơn 30m, dòng thác nghiêng mình đổ xuống sông sâu, tạo nên một bức tranh thiên nhiên huyền diệu. Bên vách đá sừng sững, thác nước reo vang, làm lan tỏa một vùng không gian rộng lớn âm thành dào dạt, trầm hùng. Nhìn từ xa, thác Dray Nur như một bức tường nước khổng lồ, muôn ngàn sợi nước trắng xóa quấn quít, đan xen, lung linh, huyền ảo. Giữa đại ngàn kì vĩ, trùng điệp núi non, thác Dray Nur quyến rũ con người bởi vẻ đẹp tươi tắn, trong lành và những huyền thoại, truyền thuyết về sự ra đời của thác.
Cách Tp. Buôn Mê Thuột khoảng 30 km theo hướng về Tp. Hồ Chí Minh, thác Dray Nur có chiều dài 250m, nối liền địa bàn hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Từ độ cao hơn 30m, dòng thác nghiêng mình đổ xuống sông sâu, tạo nên một bức tranh thiên nhiên huyền diệu. Bên vách đá sừng sững, thác nước reo vang, làm lan tỏa một vùng không gian rộng lớn âm thành dào dạt, trầm hùng. Nhìn từ xa, thác Dray Nur như một bức tường nước khổng lồ, muôn ngàn sợi nước trắng xóa quấn quít, đan xen, lung linh, huyền ảo. Giữa đại ngàn kì vĩ, trùng điệp núi non, thác Dray Nur quyến rũ con người bởi vẻ đẹp tươi tắn, trong lành và những huyền thoại, truyền thuyết về sự ra đời của thác.
Thác Dray Nur lung linh, thơ mộng.
Làng du lịch Mỹ Khánh
Theo Quốc lộ 1A từ Tp. Cần Thơ hướng Sóc Trăng rồi rẽ phải đi thêm chừng 6km, chúng tôi về tới Làng du lịch Mỹ Khánh (335 lộ Vòng Cung, xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền, Tp. Cần Thơ) để được hòa mình vào một không gian văn hóa đặc trưng của miệt sông nước Nam Bộ.
Làng Du lịch Mỹ Khánh nằm giữa chợ nổi Cái Răng và chợ nổi Phong Điền nên du khách còn có thể đến đây bằng tàu du lịch hay ghe, xuồng ba lá dọc trên sông Hậu để ngắm nhìn cả một vùng quê sông nước Nam Bộ yên bình, mộc mạc.
Cổng vào làng du lịch Mỹ Khánh.
Về lại chiến khu xưa
Khu Di tích Lịch sử Tân Trào (xã Tân Trào - huyện Sơn Dương – tỉnh Tuyên Quang) với hơn 20 di tích lịch sử nổi tiếng liên quan đến Cách mạng Việt Nam thời kì Cách mạng Thángو năm 1945, nay đang trở thành “tâm điểm” của những chuyến tham quan tìm lại cội nguồn cách mạng của hàng vạn du khách. Và đây cũng là điểm du lịch văn hóa – lịch sử trọng điểm của tỉnh Tuyên Quang.
Tân Trào không chỉ có cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng mà còn có vị trí đắc địa về mặt quân sự và giao thông do được bao bọc bởi núi Hồng và sông Phó Đáy. Do đó, nơi đây đã từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn để xây dựng Thủ đô lâm thời Khu giải phóng. Chính tại nơi đây, ngày 13 tháng 8 năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành Hội nghị toàn quốc để quyết định tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa mùa thu năm 1945. Và đến ngày 16 tháng 8 năm 1945, Ðại hội quốc dân cũng đã họp tại đây với việc thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, bầu ra một chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và quân Giải phóng Việt Nam làm lễ ra quân.
Tân Trào không chỉ có cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng mà còn có vị trí đắc địa về mặt quân sự và giao thông do được bao bọc bởi núi Hồng và sông Phó Đáy. Do đó, nơi đây đã từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn để xây dựng Thủ đô lâm thời Khu giải phóng. Chính tại nơi đây, ngày 13 tháng 8 năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành Hội nghị toàn quốc để quyết định tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa mùa thu năm 1945. Và đến ngày 16 tháng 8 năm 1945, Ðại hội quốc dân cũng đã họp tại đây với việc thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, bầu ra một chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và quân Giải phóng Việt Nam làm lễ ra quân.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói chuyện với đồng bào Tuyên Quang dưới gốc đa Tân Trào. (Ảnh: Tư liệu).
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)