25 thg 6, 2025

Vị tể tướng không xuất thân từ khoa bảng nhưng được chúa Trịnh trọng dụng

Không xuất thân từ khoa bảng song nhờ tính cẩn thận, kín đáo, mưu lược, tể tướng Vũ Duy Chí, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An (nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) vẫn được chúa Trịnh trọng dụng.

Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, các vị vua chúa thường tổ chức các khoa thi Nho học để kén chọn nhân tài. Qua đó, tìm ra những người đỗ đạt cao, tin cậy ban cho những chức phẩm quan trọng trong triều đình và địa phương để giúp dân, giúp nước.

Tuy nhiên, có một vị tể tướng không xuất thân từ khoa bảng nhưng nhờ tính cẩn thận kín đáo, có nhiều cơ mưu nên được chúa Trịnh Tạc trọng dụng, đó chính là Vũ Duy Chí.

Mộ Tể tướng quốc lão Vũ Duy Chí

Vũ Duy Chí (1604 - 1678), người làng Mộ Trạch, huyện Đường An (nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Theo “Vũ tộc gia phả”, ông là con trai thứ ba của cụ Vũ Quốc Sĩ. Ông là người tướng ngũ đoản, trán cao, cằm rộng, sức khỏe hơn người, thích đao kiếm.

Ông cùng anh trưởng là Vũ Tự Khoái chăm sóc giúp đỡ Trịnh Tạc từ lúc chưa lên ngôi chúa. Năm 24 tuổi, ông chỉ thi đỗ đến thư toán. Một lần chúa hành lễ ở cung miếu, đang quỳ lạy thì đai áo tuột đứt, ông quỳ bên cạnh bèn lấy kim cất sẵn trong tay áo khâu lại, chúa khen là người biết lo lắng chu đáo.

Nhà thờ “Quang chấn đường” chi III (hậu ngũ chi) họ Vũ, làng Mộ Trạch

Lại có lần, ngay chính đản, chúa hạ chỉ cho các quan văn võ đến chầu vua Lê rồi mặc nguyên phẩm phục đến chầu phủ chúa. Ông khuyên chúa không nên làm trái với lẽ thường, thiên hạ sẽ dị nghị. Chúa nghe theo và khen ông là người kín đáo, làm việc có cân nhắc, tính toán cẩn thận, rất thông hiểu về trị dân.

Khi Trịnh Tạc lên ngôi chúa, ông lại vâng mệnh chúa, đem quân đi đánh Thuận Quảng, dẹp nhà Mạc ở Cao Bằng, đánh chúa Nguyễn trong Nam, lập nhiều công trạng. Vì theo chúa chinh chiến, lập nhiều chiến công, đến niên hiệu Cảnh Trị, ông được thăng đến chức Thượng thư Bộ Lễ, tước Phương quận công.

Năm 1669, ông cùng với Trần Đăng Tuyển được chúa Trịnh Tạc tin cậy phong chức Tham tụng ở phủ chúa. Quần thần có lời thắc mắc Vũ Duy Chí xuất thân từ chân lại viên mà được phong quan tước cao. Chúa Trịnh Tạc lấy việc trong lịch sử Trung Quốc cũng có những người không đỗ cao mà vẫn đảm nhiệm tốt chức trọng của triều đình như Tiêu Hà, Tào Tháo triều nhà Hán; Phong Huyền, Đỗ Như Hốt triều nhà Đường để biện minh.

Ban thờ tổ tiên trong nhà thờ “Quang chấn đường” chi III (hậu ngũ chi) họ Vũ, làng Mộ Trạch

Năm 1676, khi đã 73 tuổi, ông về trí sĩ, được gia thăng chức Thượng thư Bộ Lại, quốc lão thiếu phó. Chúa Trịnh Tạc nể trọng ban cho ông đôi câu đối thêu vào lá cờ rằng:

“Nhất đại tông thần Tiêu tướng quốc
Lưỡng triều nguyên lão Triệu Hàn vương”

nghĩa là: 

Làm quan đầu triều một đời, như tướng quốc Tiêu Hà
Trải làm nguyên lão hai triều, như Hàn vương Triệu Phổ (Tể tướng của Tống Thái Tổ).

Trong “Lịch triều hiến chương loại chí” trang 330, sử thần Phan Huy Chú đã nhận xét về ông: “Ông tính trung hậu, chất phác, ngay thẳng, giữ mình đứng đắn, không a dua”

Tấm bia “Quang Chấn đường bi tịnh minh” niên đại 1727

Năm 1678, ông mất, thọ 75 tuổi, táng tại xứ Mả Rậm. Chúa thương tiếc, nhớ công lao của ông gia tặng chức Thái phó. Con ông cũng là Tiến sĩ Vũ Bật Hài cũng là nhân tài đi sứ nhà Thanh và làm quan cùng triều với ông.

Ông chính là Thủy tổ của của nhà thờ lấy tên là “Quang chấn đường” nghĩa là nhà thờ làm rạng rỡ cha ông đời trước và phấn chấn con cháu đời sau. Theo các cụ trong chi 3 (hậu ngũ chi), dòng họ Vũ thì nhà thờ do chính ông Vũ Duy Chí cùng phu nhân lập lên trước khi ông qua đời để lo việc thờ cúng gia tiên. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhà thờ bị phá hủy. Sau hòa bình, nhà thờ được xây dựng lại trên nền đất cũ và trải qua một số lần tu sửa lại như hiện nay do gia đình ông trưởng chi Vũ Trọng Chính thờ phụng.

Trong khuôn viên nhà thờ còn có tấm bia “Quang Chấn đường bi tịnh minh” do đại học sĩ Hồ Sĩ Dương soạn dựng năm 1727 ghi công Tể tướng quốc lão. Bia còn khắc bài tự thuật con đường tiến thân của ông và lời khuyên con cháu do ông tự soạn, bia đặt trước nhà thờ ông.

Ông mãi là tấm gương sáng về tài đức cho con cháu đời sau noi theo. 

TÂM HÀ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét