20 thg 1, 2014

Ngọn núi thấp chất đầy huyền thoại

Cảnh đồng ruộng vùng Thất Sơn lãng mạn, nên thơ. 

Khi nói về Bảy Núi, vùng bán sơn địa của tỉnh An Giang, người xưa thường dùng cụm từ “Thất Sơn huyền bí”. Ngày nay, dù đã sang thế kỷ XXI đã hơn chục năm, nhưng nhiều huyền thoại bí ẩn vẫn còn phủ trùm những ngọn núi ở vùng biên thùy Tây Nam này. Trong đó, đậm màu huyền thoại nhất có lẽ là câu chuyện về núi Nước.

Trong số 7 ngọn núi ở An Giang được các nhà nghiên cứu tiền bối (Trịnh Hoài Đức, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Văn Hầu, Vương Hồng Sển) liệt kê, núi Nước (ở Ba Chúc, Tri Tôn) không có tên. Núi Nước là nơi khi xưa vua Hàm Nghi từng đi qua trước khi trốn sang Campuchia. Có lẽ đó là ngọn núi nhỏ nhất thế giới, cao chưa tới 50 mét! Núi Nước nhỏ bé, thấp lè tè nhưng lại là nơi đầy ắp huyền thoại tâm linh và ái quốc; mặc dù nó không nằm trong nhóm Thất Sơn nổi tiếng là huyền bí.



Núi thấp nhưng khách cũng phải trèo đá cheo leo. 

Núi Nước là một trong tổng số 37 ngọn núi thuộc các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn và thị xã Châu Đốc của tỉnh An Giang. Gọi núi Nước vì vào mùa nước nổi, cánh đồng bao quanh núi ngập tràn nước. Giữa màu nước đỏ phù sa giàu có ấy, núi nhô lên, nên người xưa đặt tên như vậy.

Bên chân núi Nước có Linh Bửu Tự. Ông thủ lễ (người luân phiên trông nom việc nhang đèn ở chùa mỗi ngày) Nguyễn Văn Leo (51 tuổi) cho biết, chùa được Đức bổn sư Ngô Lợi xây dựng năm 1884 bằng tre lá, sau các cổ tự Phi Lai, Tam Bửu ở thị trấn Ba Chúc. Qua thời gian, chùa xuống cấp nghiêm trọng rồi được xây mới vào năm 2011, với vật liệu kiên cố. Ngày nay, khách du lịch và Phật tử hành hương đến núi Nước luôn được các ông thủ lễ hướng dẫn tham quan và kể cho nghe nhiều huyền thoại hoang đường nhưng thấm đẫm tình cảm dân tộc.

Tha hồ tưởng tượng

Đá Con Cóc. 

Núi Nước đúng là cảnh tiên nơi hạ giới, nhiều tảng đá mang hình thù vừa lạ vừa quen khiến du khách viếng thăm phải luôn... động não. Đến đây, khách sẽ bái phục bàn tay thiên nhiên tài hoa đã khắc tạc đá thành những hình ảnh đơn sơ, tạo ấn tượng tâm linh kỳ bí. Bên hông trái Linh Bửu Tự là hòn đá khổng lồ trông như trái xoài rụng, vậy mà người ta “gán” cho nó cái tên Trứng Đá. Còn Miệng Bà Chằn là cục đá hình ôval, không có mắt mũi, chỉ có cái miệng chành bành trông ghê rợn. Đá Con Cóc dáng lom khom như cóc đang nhảy. Một vách núi có một vết khuyết giống bàn chân dẫm. Thủ lễ Nguyễn Văn Đổng nói đó là Bàn Chân Tiên; rồi ngâm nga: “Bàn chân trên đá còn in dấu / Chứng tỏ Phật Tiên đã xuống trần”. Núi Nước còn có cục đá y chang cái lưỡi con người...

Trí tưởng tượng còn được “nhấn” cao hơn tại miếu Cô Năm. Thủ lễ Leo kể cô Năm tu ở đây rồi mất khoảng 40 năm trước. Khi đó, cô hiện về bảo xây miếu. Ông Đổng thì khom người chỉ vào cái hang nhỏ hẹp, nói rằng trong đó có chiếc ‘võng Cô Năm’ nằm khi xưa. Cái ‘võng’ - thực ra là tảng đá dẹp cong như hình chiếc xuồng.

Miệng Bà Chằn. 

Thủ lễ Đổng vừa phủi bụi đất vừa chỉ vào hai vết lõm lờ mờ, mà tôi phải cố nhìn kỹ rồi tưởng tượng theo lời mô tả của ông ta mới thấy dấu lõm của hai ‘đầu gối’ mà ông bảo đó là ‘dấu Tiên quỳ’. Còn Vồ Ông Tượng to lớn thì có, nhưng thực tình rất khó nhìn ra hình dáng một... con voi. Sân Tiên là tảng đá trên cao nhứt núi, rộng khoảng 20 mét vuông. Đứng nơi nầy, nhìn khắp xung quanh phong cảnh vừa hùng vĩ với núi non trùng điệp, vừa lãng mạn với ruộng vườn xanh mướt, lẫn trong đó là những ngôi nhà nông thôn xinh xắn, thanh bình, du khách có cảm tưởng như đang phiêu diêu trên ngàn mây. Đáng nói là núi chỉ toàn đá tảng to lớn, vậy mà nơi nào có kẽ hở là có cây mọc, tỏa bóng mát.

Huyền thoại... dễ thương

Ông Đổng đọc hai câu thơ: “Núi cao nhờ đá chất chồng / Người tu thì có bạn lành gieo duyên”. Cái ‘duyên’ đó được bà Phạm Thị Ê (73 tuổi) giải thích: “Tui quê ở xứ Hòa Hảo (Tân Châu, An Giang). Một đêm chiêm bao nghe Mẹ biểu lên đây chăm sóc xây dựng điện Mẫu, thờ Cửu Huyền trăm họ.

Đây còn gọi Thủy Đài Sơn hang động, di tích đức Phật Thầy Tây An. Bà vào hang sâu, chỉ vách hang và nói chắc nịch: “Mẫu đó”. Phải cố lắm mới “thấy” hai mặt người lờ mờ sau lớp sơn trắng. Chứng minh về sự linh thiêng của núi Nước, bà Ê bảo hang nầy lâu lâu có con mãng xà xuất hiện. Mãng xà vương tu nên không cắn giết ai. Bà hào hứng chỉ một tảng đá, nói: “Đây là Nỏ Thần Cung của An Dương Vương”. Bà kể, khi ngai vàng bị Thục Phán chiếm, An Dương Vương chạy tới núi Nước (?!), lúc bấy giờ là hòn đảo giữa biển thì cùng đường. Biết công chúa phản bội, vua chém đầu nàng rồi liệng cây búa. Hiện nay vách núi vẫn còn in dấu búa xưa”.

Đá Ông Tượng. 

Bên trong một hõm đá có tượng con rùa xây bằng đá núi và xi măng nổi cao trên một bệ đá. Ông Leo kể: “Hồi xưa, Thiên Địa hội thấy núi Nước có long mạch nên ếm. Đức Bổn sư biết, phá ếm bằng cách xây con rùa nầy. Người dân địa phương gọi đó là thần Kim Quy”. Mùa nắng hồ khô rang. Nhưng mùa mưa, hồ lúc nào cũng có nước. Đặc biệt có cả ‘nước lớn, nước ròng’. Nhìn xuống chân núi, cánh đồng xanh mướt lúa, có chiếc cầu cây bắc ngang đẹp như tranh. Đầu cầu có tảng đá to có hình hai con voi. Bà Ê bảo đó là voi thần của Hai Bà Trưng, là cục Đá Ông Tượng. Ông Leo nói quả quyết: “Nội núi Nước nầy, cục đá nào cũng đẹp, cũng linh thiêng. Nhưng cục Đá Ông Tượng là đẹp nhứt, ý nghĩa nhứt”.

Hiện nay, ngoài các ngày lễ lớn đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, ngày thường khách viếng núi Nước rất ít. Nếu được quy hoạch, quảng bá, núi Nước sẽ là trọng điểm du lịch An Giang, vì leo núi dễ như chơi.

Trước khi đến núi Nước “lội” trong mê cung huyền thoại, bạn nên thưởng thức cháo bò tại một quán duy nhất ở thị trấn Ba Chúc, quán Sáu Xệ. Không giống cháo bò Tri Tôn, cháo bò ở đây được nấu với huyết cùng lòng bò mới xả thịt nên vị cháo có sự bùi béo của huyết tươi, lại điểm xuyết cái dai giòn xừn xựt của những lá xách, bao tử, ruột già, ruột non, tim, gan bò vừa chín tới. Ăn xong, ghé nhà mồ Ba Chúc mua mấy bịch bánh phồng khoai mì nướng đem theo ăn núi. Bánh vừa giòn vừa thơm mùi nếp trồng trên ruộng cao. Đặc biệt nếu mua bánh đem về nhà, mấy bữa sau mở dây thun ra, cắn miếng nào nhai cũng giòn rụm.

“Cụ Ngô Lợi còn có tên là Hữu, sanh năm Canh dần (1829) tại Dội (gần biên giới, thuộc Châu Đốc). Cuộc đời cụ là một tấm gương đạo đức, trong sạch, có khí tiết. Thuở nhỏ sinh hoạt thế nào không biết. Lớn lên đi tu. Lấy bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy làm đạo, giữ tứ ân, trọng hiếu nghĩa. Tín đồ khá đông, mà toàn thể đều được dạy tôn thờ Phật Đạo, dạy cư sĩ tại gia. Bởi trong bốn ân có ân Tổ quốc cho nên cụ ghét Tây, mến những kẻ trung lương ái quốc. Cụ có liên lạc với cụ Quản Thành, một đại đệ tử của Phật Thầy và là một lãnh tụ nghĩa binh chống Pháp. 

Vì vậy mà nhà cầm quyền thực dân nghi ngờ cụ và cũng do đó mà tông tích của cụ rất bí mật. Pháp có mấy lần tìm bắt, nhưng bắt không được. Cụ viên tịch hồi năm Canh dần (1890) trong lúc không đau ốm gì. Truyền rằng xác cụ được một mãnh hổ cõng vào dấu trong một hang núi và xác ấy khô lại, không hôi thối”. 

(Nguyễn Văn Hầu, Nửa tháng trong miền Thất Sơn) 


Bài: Cúc Tần - Ảnh: Phương Kiều

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét