27 thg 1, 2018

Một ngày trên đảo Quan Lạn

Thuộc huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, đảo Quan Lạn có diện tích hơn 11 km2 với dân số hiện vào khoảng gần 8.000 người. Một ngày trên đảo Quan Lạn, du khách được trải nghiệm những cảm giác thú vị từ phong cảnh thiên nhiên đến các công trình tôn giáo, các món ăn hấp dẫn, đồng thời có dịp tìm hiểu cuộc sống cư dân địa phương. 

Buổi sáng, du khách dậy sớm đón bình minh, thăm các làng chài, bãi cào ngao, săn sá sùng… Chiều đến, du khách thăm viếng các đình chùa trên đảo như đình Quan Lạn, đền Trần Khánh Dư, chùa Linh Quang Tự, và ra các bãi tắm còn hoang sơ để được ngâm mình dưới làn nước trong xanh. 


Đảo Quan Lạn nằm giữa Vịnh Bái Tử Long.

Thu về bên dòng sông Năng

Sông Năng gắn liền với hai thắng cảnh nổi tiếng ở tỉnh Bắc Kạn là thác Đầu Đẳng và động Puông. Khi mùa thu về, cảnh sắc hai bên bờ sông mang vẻ đẹp quyến rũ, những hàng cây lá úa vàng rủ xuống dòng sông, soi bóng dưới làn nước trong xanh, xa xa một vài chiếc thuyền nhỏ của người đi đánh cá, chốc chốc có những đàn cò trắng vỗ cánh tung bay về phía rừng…

Sông Năng mùa thu có nhiều đoạn nước xanh biếc, trong vắt đến mức có thể nhìn thấy những đám rêu xanh tận đáy. Sông như chiếc gương trời khổng lồ soi hình bóng núi và những làng bản của đồng bào Tày, Mông. Những gì đẹp nhất của sông Năng khi vào thu có thể nhiều người vẫn chưa biết mỗi khi đến thăm Hồ Ba Bể.


Vào thu, cánh rừng bên sông như nhuộm một màu vàng.

Rong chơi ở Tà Phìn

1. Ra khỏi Sa Pa trên con đường hướng về thành phố Lào Cai chừng hơn 6 km thì có một con đường rẽ bên trái. Không có bảng hướng dẫn, chỉ có thể tìm đường bằng cách hỏi miệng với cô chủ tiệm bán tạp hóa ở ngã ba: “Cô ơi, có phải đây là con đường đi Tà Phìn”. Cô chủ tiệm gật đầu. Con đường theo sự chỉ dẫn của cô chủ tiệm tạp hóa là một con đường có đủ loại ổ gà, ổ trâu, ổ… voi. Đi một đoạn thì gặp một trạm thu phí nho nhỏ ven đường, cô nhân viên ăn nói ngọt ngào: “Dạ, mỗi đầu người bốn chục ngàn ạ!”. Tiền trao tay rồi qua cổng, không có vé, chẳng biên nhận.

Phải ghìm chặt tay lái để lạng lách trên những con dốc, bên dưới ruộng lúa vào mùa lúa chín với màu vàng quyến rũ, nhưng muốn nhìn ngắm thì chỉ có cách duy nhất là dừng xe, có chỗ hố sâu, tay lái suýt chao té xuống…



Kỳ thú Mường Hum

Mường Hum thuộc huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai là một vùng đất hoang sơ, thơ mộng, nơi sinh sống của người dân tộc Mông, Hoa, Giáy, Dao, Hà Nhì… Tiết trời Mường Hum quanh năm mát mẻ, vì vậy cây cỏ quanh năm tươi tốt. Mường Hum thu hút du khách tìm đến thường vào mùa xuân và mùa thu. Mùa này, Mường Hum đẹp như một bức tranh thiên nhiên quyến rũ. 

Những triền núi chập chùng, nhấp nhô uốn lượn với những vạt rừng xanh thẳm. Phía dưới là những thửa ruộng bậc thang như những đường viền tô điểm một cách khéo léo cho đồi núi. Vào thời gian thu hoạch, ruộng bậc thang Mường Hum rực vàng lúa chín. Đứng trên những mỏm đá, phóng tầm mắt ra xa, du khách không khỏi trầm trồ với hình ảnh những sóng lúa đang lượn trên đồng. 


Ruộng bậc thang như những đường viền tô điểm vẻ đẹp cho những triền núi Mường Hum.

Trải nghiệm leo đỉnh Hàm Lợn

Leo núi theo kiểu đi từng bậc thang lên đỉnh là chuyện bình thường và dễ dàng. Nhưng kiểu mò mẫm đường mòn từ ngọn núi này qua ngọn núi khác lại là một trải nghiệm khác biệt và thú vị với những người ưa thích du lịch khám phá.

Bài kiểm tra thể lực


Hàm Lợn là một ngọn núi thuộc dãy Độc Tôn ở huyện Sóc Sơn, Hà Nội, với độ cao khoảng 460 m so với mực nước biển. Ngọn núi này cách Hà Nội chỉ chừng 40 km, không xa đô thị nhưng vẫn còn khá hoang vu. Bởi vậy nên nhiều bạn trẻ thích đến đây, tổ chức cắm trại bên hồ Hàm Lợn hoặc leo núi.

Nhiều bạn trẻ cho rằng leo lên đỉnh Hàm Lợn, mặc dù ngọn núi này không cao, nhưng sẽ giống như một bài kiểm tra thể lực cho một hành trình gian nan khác là leo đỉnh Fansipan, ngọn núi cao nhất Việt Nam nằm trong dãy Hoàng Liên Sơn giáp hai tỉnh Lào Cai và Lai Châu. Anh Thành Vinh (Sóc Sơn – Hà Nội) nhận xét: “Khác với Fansipan, Hàm Lợn không có một đường mòn chính thức nào cả, nên rất dễ lạc”. Thi thoảng đường đang đi đột ngột biến mất. Thay vào đó là những đám dương xỉ rậm rạp, bụi bặm, những bờ bụi cao quá đầu người. Đoàn leo núi luôn cần một người thông thạo địa hình và thành viên cần bám rất sát người dẫn đường này để tránh lạc. 


Vượt qua các cánh đồng trước khi đến chân núi Hàm Lợn.

Về quê hương của những điệu vọng cổ

“Bên nước mặn biển cho muối nhiều, bên nước ngọt, phù sa vun bồi” là lời giới thiệu về mảnh đất Bạc Liêu trù phú. Không chỉ nổi tiếng bởi những điệu vọng cổ, giai thoại về bác Ba Phi hay công tử Bạc Liêu một thời, mảnh đấy này còn mặn mòi vị muối, thắm đượm tình người.

Nặng phù sa, nặng nghĩa tình 


Nằm trong lòng Đồng bằng sông Cửu Long, Bạc Liêu tiếp giáp Cà Mau - địa đầu phía Nam của Tổ Quốc. Đúng với đặc trưng của miền Tây Nam Bộ, Bạc Liêu gắn với hình ảnh của phù sa trĩu nặng theo dòng Mê Kông ra biển, bồi đắp qua mấy trăm năm tạo thành gò, bồi tươi tốt, những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Rừng đước mênh mông san sát theo hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Ở đây khí hậu đặc trưng với hai mùa nắng mưa rõ rệt. Thiên nhiên ưu đãi cho vùng đất này không chỉ có những miệt vườn cây trái trĩu cành, thóc lúa nặng bông mà còn có cá tôm miền biển, những cánh đồng muối trắng tinh nổi tiếng một vùng. 

Biểu diễn đờn ca tài tử. 

Lưu giữ hương vị lạp sườn Mường Khương

Nhờ có công nghệ bảo quản tốt, người ta có thể làm lạp sườn quanh năm. Nhưng với những người làm lạp sườn ở Mường Khương (Lào Cai), tháng 10 âm lịch là thời điểm làm ra món lạp sườn ngon và đúng vị nhất. 

Bí kíp chế biến món lạp sườn ngon


Từ lâu món lạp sườn gác bếp hay hun khói đã trở thành món ăn truyền thống, sử dụng trong những bữa ăn hàng ngày và là món ăn không thể thiếu mỗi dịp Tết đến, Xuân về ở Mường Khương. Không ai nhớ rõ nguồn gốc của món lạp sườn này. Nhưng theo các cụ cao niên thì có lẽ món lạp sườn bắt nguồn từ những ngày còn khó khăn. 

Lạp sườn được hong khói. 

Làng làm quỳ vàng duy nhất tại Việt Nam

Kiêu Kỵ là làng nghề truyền thống chuyên làm vàng quỳ thuộc đất Đông Ngàn, Kinh Bắc xưa (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Đến Kiêu Kỵ hôm nay, từ xa đã nghe thấy những âm thanh đập quỳ vang vọng khắp xóm làng.

Ở làng Kiêu Kỵ hiện có hàng trăm hộ gia đình chuyên kinh doanh vàng quỳ, nhiều hộ sản xuất với quy mô lớn tới 20 thợ làm việc. Nhờ vậy, hàng trăm thanh niên và người cao tuổi trong làng có việc làm với thu nhập ổn định.

Anh Vũ Huy Giao, người dân làng nghề vàng quỳ Kiêu Kỵ đang miệt mài giã quỳ. Ảnh: Trịnh Bộ 

Đao đao, nhạc cụ đơn sơ, độc đáo của người Khơ Mú

Ban đầu là một dụng cụ sản xuất, trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử người Khơ Mú đã biến ống nứa nhỏ thành loại nhạc cụ gần gũi, thân thuộc, làm phong phú đời sống tinh thần và làm giàu bản sắc văn hoá, âm nhạc của mình. 

Dấu ấn trong đời sống của cư dân nông nghiệp vùng núi phía Bắc


Đao đao (đao) hay thăm đao đao từ lâu luôn có mặt trong mọi sinh hoạt của người Khơ Mú và người Thái ở vùng núi phía Bắc. Được làm từ một ống nứa, nguyên liệu tự nhiên gần gũi và gắn bó thân thuộc với người Khơ Mú, đao đao vốn là 1 công cụ sản xuất vô cùng sáng tạo của người Khơ Mú.

Chính vì ngôi nhà truyền thống của người Khơ Mú là dạng nhà sàn, mái lợp cỏ gianh - loại thực vật sinh trưởng mạnh mẽ, che phủ tốt khi phơi khô và liên kết với nhau bằng tre, nứa và lạt. Đo gianh, chải gianh là công việc thường xuyên, gắn liền với việc làm nhà, bảo dưỡng mái nhà của đồng bào. Ống nứa nhỏ này được đồng bào sử dụng trong quá trình kết gianh làm mái nhà là một dụng cụ hữu dụng, kết tinh tri thức dân gian qua quá trình lao động lâu dài. 

Phụ nữ Khơ Mú độc tấu đao đao. 

24 thg 1, 2018

Đi dọc Việt Nam theo bánh con tàu quay

Ngày 20/7/1885 chuyến tàu đầu tiên xuất phát từ ga Sài Gòn, vượt Sông Vàm Cỏ Đông bằng phà tại Bến Lức, đến ga cuối cùng tại trung tâm Tp. Mỹ Tho đánh dấu sự ra đời của ngành Đường sắt Việt Nam (ĐSVN), một trong số ít nước có hệ thống đường sắt hiện đại khi đó. Sau hơn 132 năm phát triển, mạng lưới đường sắt chính của Việt Nam với tổng chiều dài 2600 km nối liền các khu dân cư, trung tâm văn hóa nông nghiệp và công nghiệp suốt từ Bắc vào Nam. Chi phí vận doanh thấp, độ an toàn cao, thân thiện môi sinh, tiêu hao ít năng lượng và tài nguyên đất đai... là những ưu điểm nổi trội của đường sắt. 

Những bánh hỏa xa mang khát vọng “Đổi mới”
 


Địa hình đất liền Việt Nam chạy dài hướng Bắc - Nam theo bờ biển hình chữ S, có lẽ vì thế, mà từ năm 1936, người Pháp trong công cuộc khai thác thuộc địa đã xây dựng mạng đường sắt dọc Việt Nam với tổng chiều dài 2600km. Trong thời gian chiến tranh, tuyến đường sắt bị chia cắt và được phục hồi sau khi đất nước thống nhất năm 1975. Đường sắt Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và ngày nay, đang tiếp tục phát triển với hai nhiệm vụ quan trọng là kết nối du lịch và vận chuyển hàng hóa.