24 thg 1, 2013

Bánh phu thê gọi mùa cưới

Mùa cưới đến cũng là lúc dân làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) nhộn nhịp tiếng chày giã gạo để làm bánh phu thê, một loại bánh truyền thống không thể thiếu trong cỗ cưới của người Việt.


Bánh phu thê - Ảnh: Tiến Thành

Ai đã đến Bắc Ninh hẳn không quên thưởng thức món bánh phu thê thơm dẻo, màu vàng ươm được bọc trong tàu lá chuối, lá dong xanh mướt. Chiếc bánh nhỏ xíu, xinh xinh nhưng gói ghém bao tinh hoa văn hóa ẩm thực của miền Kinh Bắc.


Thăm làng tranh Đông Hồ

Nói đến những giá trị nghệ thuật truyền thống của Việt Nam không thể không nhớ tới tranh dân gian Đông Hồ. Bài này xin được giới thiệu một điểm đến hấp dẫn: làng tranh Đông Hồ nay thuộc thôn Đông Khê, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh để cùng khám phá nét đẹp đặc trưng của một làng nghề Việt Nam.

Làng tranh Đông Hồ nằm bên bờ nam sông Đuống có hơn 240 hộ dân, bình yên như bao làng quê Việt khác. Bây giờ số gia đình chuyên làm về tranh Đông Hồ còn lại không nhiều, khiến những gì còn lưu lại càng trở nên quý giá.



Có một gia đình tiêu biểu còn gìn giữ giá trị này, đó là gia đình ông Nguyễn Đăng Chế đã có 20 đời làm nghề, lâu đời nhất của làng. Cả đại gia đình ông 3 thế hệ đều tâm huyết với tranh Đông Hồ.

Thăm chùa Dận, tưởng nhớ người viết chiếu dời đô

Nằm ngay quốc lộ 1B cũ, tại thôn Chùa Dận, Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh, du khách chẳng mấy khó khăn để đến thăm chùa Dận, ngôi chùa gắn liền với các vị thiền sư có tiếng trong lịch sử như Định Không, Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân. 
Cổng chính nhìn từ sân chùa

Dân gian gọi đây là chùa Rặn, tức “rặn đẻ”. Rồi dần dần gọi chệch thành chùa Dận. Chùa có từ thế kỷ VIII. Cổng chính hai tầng trông ra ruộng lúa xanh mướt. Khuôn viên chùa Dận chia làm ba khu chính. Tòa tam bảo phía trước chùa gồm năm gian hai tầng cùng hai gian hậu cung. Có một điều khác biệt của tòa tam bảo so với những ngôi chùa khác ở Việt Nam. Đó là mái chùa rất cao, ánh sáng tự nhiên tràn vào nhiều nên trong chùa rất sáng.


Chùa Dâu đất Luy Lâu

Vùng đất cổ tích Dâu - Luy Lâu cách Hà Nội chỉ hơn 20km về phía đông, mang trong lòng bao câu truyện cổ. "Dù ai đi đâu về đâu/ Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về/ Dù ai buôn bán trăm nghề/ Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu"... Ai đã một lần đi về Thuận Thành, Bắc Ninh, hãy một lần về thăm chùa Dâu, ngôi chùa cổ kính xưa nhất Việt Nam này.

Theo ghi chép trong sách sử, bia đá, là ngôi chùa Phật giáo cổ nhất Việt Nam, được xây dựng từ thế kỉ thứ 2 dưới thời Sĩ Nhiếp làm thái thú. Chùa Dâu còn có tên là chùa Diên Ứng, thờ nữ thần Pháp Vân nên còn gọi là chùa Pháp Vân, và nằm trong vùng đất Cổ Châu nên cũng gọi là chùa Cổ Châu. Chùa gắn liền với truyện cổ tích Tứ pháp của người Việt xưa.

Chùa Dâu

Truyện rằng, thuở xưa nàng Man Nương ở vùng Dâu, vì thiền sư Khâu Đà La bước qua người mà mang thai, sinh ra đứa con đem trả nhà sư. Thiền sư bỏ đứa trẻ vào gốc cây dung thụ, lại đưa cho Man Nương cây thiền trượng có thể làm phép lấy nước cứu dân bị hạn hán. Ngày cây dung thụ bật gốc trôi về sông Dâu, thái thú Sĩ Nhiếp muốn vớt lên nhưng không sao làm được, chỉ có nàng Man Nương dùng dải yếm buộc vào nhẹ nhàng đem lên bờ.

Từ thân cây thần kì ấy, người dân tạc bốn pho tượng Nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, tức là bốn chị em thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp của tín ngưỡng nông nghiệp, và đặt thờ ở bốn ngôi chùa Dâu, Đậu, Tướng, Dàn. Giữa cây dung thụ còn một khối đá, gọi là Thạch Quang Phật, được thờ chung ở chùa Dâu. Bà mẹ Man Nương khi mất được thờ trong chùa Tổ cách đó không xa.

Từ câu truyện cổ đó, đã tạo nên một hệ thống chùa Tứ Pháp rất đặc biệt của riêng người Việt: chùa thờ Nữ thần nông nghiệp, thờ người Mẹ Việt, lấy tượng Nữ thần làm trung tâm chứ không phải là tượng Phật. Phật và Nữ thần hòa quyện, bà mẹ của các Nữ thần cũng được tôn là Phật Mẫu Man Nương.

Tượng cừu bằng đá bị mài mòn vết ở chùa Dâu

Kiến trúc chùa Dâu còn đến ngày nay được dựng dưới thời Trần, do trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi trùng tu. Bao quanh tòa điện chính chữ công là những dãy nhà ngang, nhà dọc vây kín theo kiểu nội công ngoại quốc. Chính giữa sân chùa trước bái đường, Mạc Đĩnh Chi đã cho dựng ngôi tháp Hòa Phong cao chín tầng, nay chỉ còn ba. Ngôi tháp vuông xây bằng gạch trần, dáng chắc khỏe nổi bật giữa khung cảnh xung quanh. Tháp tượng trưng cho ngọn núi vũ trụ, bốn góc tháp có bốn tượng Thiên vương trấn giữ, trên tháp treo một khánh đồng cổ.

Dưới chân tháp Hòa Phong có một bức tượng cổ hình một con cừu đá nằm quỳ hai chân trước, được tạc từ gần 2.000 năm trước. Truyện rằng xưa Sĩ Nhiếp có hai con cừu, khi ông chết đi, hai con cừu lang thang khắp ruộng đồng, một con tìm được về lăng Sĩ Nhiếp nằm phủ phục, một con lạc đến chùa Dâu không biết đường về nên ở luôn lại đó nghe kinh. Trên lưng cừu đá có một vết lõm của rất nhiều thế hệ đã mài dao kéo lên đây.

Tháp Hòa Phong dựng từ thời Trần

Trong chính điện chùa Dâu, pho tượng lớn nhất và đẹp nhất là bà Dâu - nữ thần mây Pháp Vân. Pho tượng màu gụ, được ngồi trên tòa sen như tượng Phật, nét mặt như một người mẹ hiền từ nhìn xuống, bàn tay phải đưa ra như vỗ về an ủi, tay trái đặt trong lòng. Bốn phía tòa sen có các vòng sắt để có thể di chuyển tượng trong ngày lễ hội. Tượng được phủ lớp áo vàng, ngày hội khi làm lễ tắm tượng mới thay áo.

Phía trước là nơi đặt Thạch Quang Phật, bàn thờ trước nữa là người em hai Pháp Vũ. Nguyên chùa Đậu bị phá thời Pháp, người dân đem tượng Pháp Vũ về thờ chung với chị tại chùa Dâu. Hai bên bà Dâu còn hai tượng nữ thần giữ chùa, để khi các Bà về thăm mẹ chùa có người coi sóc.

Tượng Nữ thần Pháp Vân tại chính điện

Trong chùa Dâu còn hai pho tượng rất đẹp là tượng Kim đồng và Ngọc nữ, với khuôn mặt sống động, đứng trong tư thế của một điệu múa cổ xưa, đặc biệt tượng Ngọc nữ vấn khăn, rẽ tóc mang đậm tâm hồn người Việt. Ngoài ra trong chùa chính còn rất nhiều các pho tượng cổ: tượng tổ sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi, tượng Mạc Đĩnh Chi, các pho Kim Cương, Hộ pháp. Tượng Phật, Bồ tát, Thánh tăng, Đức ông được bày phía sau cũng là những tác phẩm điêu khắc giá trị.

Tượng Ngọc nữ

Tượng Kim đồng

Chính hội chùa Dâu vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, cũng là ngày Phật đản theo truyền thống cổ, nhưng lễ hội được tổ chức kéo dài từ mấy ngày trước đó. Vào ngày hội, kiệu của các Nữ thần Pháp Vũ từ chùa Đậu, tượng Pháp Lôi từ chùa Tướng, tượng Pháp Điện từ chùa Dàn tụ về chùa Dâu, rồi cùng kiệu Pháp Vân đi đến chùa Tổ thăm mẹ Man Nương.

Trong bốn chị em, Pháp Điện trẻ nhất lại ở xa nhất, vì vậy bao giờ cũng phải đi sớm hơn, nhưng bao giờ cũng đến chùa Dâu trước tiên. Còn khi đã gặp chị cả Pháp Vân ở chùa Dâu, thì phải theo thứ tự mà đi về thăm mẹ. Vì vậy xưa kia sân phía trước chùa rất rộng mới đủ chỗ cho các cỗ kiệu và nghi trượng, tam quan ở tận bến sông Dâu. Ngày nay một phần đất chùa cũng đã bị lấn chiếm, và tam quan chùa cũng lùi vào nhiều lắm.

Các vị Kim cương và Hộ pháp chùa Dâu

Dân gian vùng Dâu đã có câu ca dao nhắc về chùa và hội chùa:

Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.

Ai đã một lần đi về Thuận Thành, Bắc Ninh, hãy một lần về thăm chùa Dâu, ngôi chùa xưa nhất Việt Nam. Và nếu vẫn chưa thỏa tâm nguyện, hãy tìm đến với chùa Tướng, chùa Dàn cách đó không xa. Và đặc biệt là ngôi chùa Tổ thờ người Mẹ Việt - Man Nương đã được tôn lên là Phật Mẫu. Nếu may mắn, các bạn sẽ được nghe các cụ già trong chùa ngồi kể lại câu truyện Phật Mẫu Man Nương qua bản thơ lục bát cổ xưa “Cổ Châu Phật bản hạnh”:

…Bốn chùa Sĩ Vương dựng làm
Trung trùng điện các tượng vàng tốt thay
Người ta hội họp rồng mây
Đôi bên phố xá xem tày cảnh tiên
Khai quang khánh tán mãn viên
Đặt làm lệ hội Tràng Yên thuở này…


Bài và ảnh: CHITTO

Chùa cổ vùi trong cỏ

Chùa Dạm tọa ở núi Tự, xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, Bắc Ninh là một công trình kiến trúc Phật giáo tiêu biểu thời Lý ở mảnh đất Kinh Bắc. Trải qua hơn 9 thế kỷ, do sự tàn phá của thiên nhiên và chiến tranh, lại không được tu bổ nên giờ đây ngôi chùa đã bị hoang phế vùi trong cỏ dại.

Hoành tráng dấu tích xưa

Căn cứ vào những thư tịch cổ ghi lại: “chùa Dạm được vua Lý Nhân Tông (1072-1127) cho xây dựng vào năm Quảng Hựu thứ 2 (tức năm Kỷ Tị 1086). Chùa xây trong 9 năm, đến năm 1095 mới xong. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông lại tiếp tục cho xây thêm ba tòa tháp bằng đá nữa ở chùa”. Trải qua hơn 9 thế kỷ, chùa được gọi với nhiều tên khác nhau như: chùa Đại Lãm, chùa Tấm Cám (vì ở đây có giếng Tấm Cám)... Tuy nhiên, tên chùa Dạm vẫn là cách gọi phổ thông nhất.

Theo sử sách ghi lại, chùa Dạm xưa có 99 gian vô cùng nguy nga, bề thế được xây tứ cấp dựa hẳn vào sườn núi. Chiều dài nền chùa là 120m, rộng 70m (hơn hẳn chùa Phật Tích dài 100 và rộng 60m).Tổng cộng diện tích ngôi chùa lên đến 8.400 m². Bốn lớp nền (tứ cấp) được bó ghép bằng đá tảng (mỗi viên có kích thước 50x60cm), được đặt choãi chân, chếch khoảng 70 độ và cao 5-6m. Đường xuống mỗi nền cấp của chùa là 25 bậc đá.

Chính sự bề thế của hình hài ngôi chùa lúc ban đầu mà dân gian lưu truyền một câu ca: Mười năm trăng náu, mười sáu trăng treo, mười bảy phẩy giường chiếu, mười tám đóng cửa chùa Dạm. Có nghĩa cứ sau ngày rằm người ta đóng cửa chùa, bắt đầu từ xẩm tối đến lúc trăng lên cao mới đóng hết tất cả các cửa.

Chùa được đặt ở một vị trí có sự hội tụ đầy đủ huyết mạch linh khí theo thuyết phong - thủy của phương Đông. Chùa Dạm cũng là nơi bắt nguồn của truyền thuyết Tấm Cám, và cuối đời Nguyên Phi Ỷ Lan đã về ở ẩn tu hành tại đây.

Hoang tàn trong cỏ ngày nay

Chùa Dạm ngày nay đang phải chịu cảnh hoang tàn, đổ nát. Những bức tường đá, bậc đá cổ kính, nguy nga xưa đã bị vùi trong đám cỏ dại xanh tốt. Theo chúng tôi được biết, vào những năm 1946-1947 thực dân Pháp đã hành quân về đây và đóng bốt trên ngọn núi này. Nhằm làm giặc Pháp không đạt được ý đồ, chính nhân dân địa phương đã trực tiếp đốt phá chùa.

Đất nước hòa bình bao năm qua, vậy mà chùa Dạm chưa một lần được tu bổ, sửa sang. Điều xót xa nhất ở ngôi chùa Dạm hôm nay là hình ảnh một chiếc cột biểu bằng đá nhám cao 5m không kể phần ngọn đã bị gãy nát.

Cột biểu gồm hai phần, khối hộp vuông ở dưới gắn với lớp đá mạ và khối trụ tròn ở trên có đường kính 1,5m. Tròn và vuông là biểu trưng cho trời và đất theo quan niệm xưa. Còn xét tổng thể, cột đá này là biểu tượng của Linga (sinh thực khí)... Đó được xem là công trình kiến trúc-điều khắc kỳ vĩ với nghệ thuật chạm khắc đôi rồng đuôi giao nhau, thân uốn lượn mềm mại quanh cột, đầu rồng nghểnh cao chầu vào viên ngọc tỏa sáng đạt đến mức độ tinh xảo...

Nhưng nay cột biển đá đã bị bỏ hoang, cỏ dại mọc um tùm, rêu xanh bám quanh cột. Trẻ con địa phương chăn dắt trâu, bò thường lên nghịch ngợm, đập phá... Căn nhà để người dân chỉnh trang lại quần áo trước khi vào điện lễ bái Phật thì trông như một cái lán dựng tạm. Giếng Tấm Cám như một cái ao nhỏ để trẻ con đùa nghịch, tắm rửa.

Nhiều người cho biết dưới lòng đất chùa Dạm có rất nhiều báu vật quý như: bia, tượng cổ… nhưng hiện vẫn chưa có một công trình khảo cổ nào được tiến hành để tìm lại dấu tích xưa của ngôi chùa. Chùa Dạm đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử-văn hóa từ ngày 13-1-1964, và đến tận 25-4-1994 mới được nhận bằng di tích nhưng hiện mọi người cũng không biết đến bao giờ ngôi chùa mới được trùng tu, tôn tạo lại để lấy lại dù chỉ là một phần hình hài xưa.

Dù chùa hôm nay bị vùi trong màu xanh của cỏ cây, nhưng vẫn toát ra vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính, làm xót xa thêm cho những ai đã trót một lần đến tham quan, vãn cảnh nơi này.

Bức tường đá cổ của chùa còn sót lại giờ cũng vùi trong cỏ cây

Những bậc đá lên chùa chìm trong cỏ dại 

Cột biểu đá tượng trưng cho trời đất, sinh thực khí bị xuống cấp nặng

Những chi tiết chạm khắc trên cột đã bị hoen ố, rêu phong làm biến dạng

Cột chùa xưa được làm bằng đá giờ chỉ còn là vậy

Giếng Tấm Cám cổ giờ thành cái ao nhỏ cho trẻ con tắm

Nhà thay đồ, sửa lễ như một cái lán tạm

Tấm bia cổ còn sót lại thành nơi cho trẻ ngồi chơi, nghịch ngợm

Bài, ảnh: HẢI DƯƠNG

Thơm ngọt đào Mẫu Sơn

Nhắc đến Mẫu Sơn (Lạng Sơn), mấy anh bạn tôi cứ nắc nỏm chưa nhìn thấy quả đào Mẫu Sơn bao giờ. Quả là hiếm vì đào Mẫu Sơn mỗi năm chỉ có một mùa, trong vòng một tháng mà thôi. 


Đào Mẫu Sơn căng mọng

Có lẽ so với mọi năm, năm nay đào Mẫu Sơn to hơn, mọng hơn. Ông Hoàng Phúc Lỷ, chủ tịch xã Công Sơn, một xã ngay sát chân Mẫu Sơn và cũng là xã trồng nhiều đào nhất, cho rằng do tuyết rơi dày, sâu chết hết, vì vậy quả đào mới to. Đúng như lời Phúc Lỷ, năm nay khắp khu du lịch Mẫu Sơn từ chân đến đỉnh chỗ nào cũng có đào. Trượt sang Đông Chắn về đến Khuổi Cấp, từng rừng đào lúc lỉu quả, hồng hào như má thiếu nữ.

Mẫu Sơn hè gọi

Cùng với Sa Pa, Tam Đảo, Bà Nà, Mẫu Sơn (xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn) là một điểm đến nghỉ dưỡng, tham quan thú vị cho du khách mỗi khi hè về. Mẫu Sơn những ngày này đang trở mình với màu xanh bạt ngàn của những cánh rừng hòa quyện vào mây trời.

Dừng chân nghỉ ngơi một lát tại thành phố Lạng Sơn, sau đó bắt đầu lên đường rẽ vào quốc lộ 4B, đi khoảng 30km sẽ tới chân núi Mẫu Sơn. Thời tiết nóng bức gần 40 độ C vào ban ngày ở dưới đồng bằng, nhưng khi đặt chân tới những cánh rừng xanh tươi ở Mẫu Sơn ai cũng cảm thấy trong người như dịu mát hẳn.

Vào mùa hè, các đoàn xe từ khắp đồng bằng Bắc bộ lại rồng rắn kéo nhau lên Mẫu Sơn nghỉ mát, thưởng ngoạn. Đoạn đường lên núi dài 15km được xem là gian nan và khó khăn nhất với những khúc cua lượn, gấp khúc liên tục. Với những tay lái cừ khôi nhất cũng chỉ dám đi với tốc độ 15-20 km/giờ.


Từ cao nhìn xuống, con đường lên núi như những sợi chỉ trắng uốn lượn


Lên Cao Bằng ăn củ mài


Có dịp khám phá Cao Bằng tôi mới biết một số dân tộc vùng cao nơi đây coi củ mài như một thứ lương thực chính. Thậm chí, đối với họ củ mài mang một ân nghĩa vô cùng lớn lao.


Củ mài xưa vốn là nguồn lương thực chính của người nghèo - Ảnh: P.T.T

Củ mài rất dễ chế biến thành những món ăn thông thường, có thể đồ chín ăn thay cơm, nấu canh hay nấu chè… Chè củ mài còn được xem là món ăn đặc sản của người dân vùng núi, thường người dân Cao Bằng chỉ nấu chè vào những ngày lễ, dịp sum họp.
Về mặt đông y học, rễ củ mài có công dụng bổ, hạ nhiệt, chữa được các thứ bệnh hoa mắt, chóng mặt, hư lao, mồ hôi trộm… Củ mài được dùng trong đông y như một vị thuốc, là một trong 6 vị được các lương y kết thành gọi là lục vị.


Khẩu sli - đặc sản Cao Bằng

Đến Cao Bằng, bạn sẽ được thưởng thức thứ bánh đặc sản của vùng đất này. Đó là khẩu sli.

Cái tên bánh hẳn gợi nhiều tò mò cho bạn. Khẩu sli tiếng địa phương có nghĩa là bánh gạo nếp nổ, cũng có thể hiểu là bánh bỏng. Trước đây người Cao Bằng chỉ làm khẩu sli trong những dịp lễ tết, hội hè. Bây giờ, khẩu sli đã trở thành thứ bánh bày bán hằng ngày như nhiều thứ quà khác.

Những phong bánh khẩu sli được đóng gói thành phẩm


Bánh gai Cao Bằng

Bánh gai là một thứ quà quê quen thuộc với nhiều người. Bánh gai Hải Dương ngon có tiếng, bánh ít lá gai Nam bộ cũng thật hấp dẫn… nhưng bánh gai của người Tày, Nùng ở Cao Bằng thì phải nói khá là đặc biệt.


Bánh gai

Bánh gai Cao Bằng gắn liền với một truyền thuyết. Người dân nơi đây vẫn kể rằng vào thời vua Lý Thái Tông (đầu thế kỷ 10), giặc Tống sang xâm lược nước ta, thủ lĩnh của người Cao Bằng là Nùng Trí Cao đã chỉ huy quân dân vùng biên ải đánh giặc. Đồng bào làm bánh gai cho các chiến binh đem theo làm lương khô ra trận. Bánh được xâu thành từng cặp để đeo bên người cho tiện cho nên người Tày, Nùng gọi là pẻng tải (bánh đeo).