Sông Quao nuôi dưỡng nghề gốm ở Bàu Trúc. Ảnh: An Lê
Dòng chảy của sông Quao có một tính chất kỳ lạ là hồi sinh được đất, nhất là thứ đất sét quý giá để làm nên đồ gốm có tuổi đời hơn 1.000 năm.
Đi lang thang theo chiếc xe được 2 chú bò lực lưỡng kéo trên cánh đồng Hamu Nulank vào một sáng cuối tháng Tám, tôi cứ vẩn vơ những câu hỏi: Tại sao con sông Quao lại có được năng lực hồi sinh đất mạnh mẽ và thần bí đến thế? Nếu như không có sông Quao, liệu nghề gốm ở Bàu Trúc có tồn tại hơn 1.000 năm không, và để trở thành một làng nghề cổ xưa nhất Đông Nam Á?
Thật sự, những con sông đều rất linh thiêng và được tôn sùng, bởi nếu không kiến tạo nên một vùng đồng bằng trù phú thì nó cũng là nguồn sống mênh mông và vĩ đại cho muôn loài. Con sông Quao không vĩ đại như sông Hồng, sông Đà hay hệ thống sông Cửu Long, nhưng nó vẫn xứng đáng là một dòng sông thiêng.
Cánh đồng Hamu Nulank nằm ngay sát dòng sông Quao. Thời điểm này, lúa đã chín vàng, nằm rập rờn trong gió, chỉ đợi tay người hái gặt. Bầu trời xanh ngắt, nắng vàng rực rỡ đầy hỏa nhiệt đúng như khí hậu đặc trưng đã mô tả: “Gió như phang, nắng như rang” của vùng Phan Rang - Tháp Chàm.
Nổi lên trên sóng lúa ngút ngàn tầm mắt là những chiếc quạt điện gió khổng lồ, trắng muốt đang chậm rãi những vòng quay. Nắng này, gió này là điều kiện thuận lợi thể thiết lập các nông trường điện gió, phục vụ mục tiêu Net Zero mà Việt Nam đang tích cực tham gia.
Nhìn những bông lúa nặng trĩu đang rạp mình trong nắng gió, có thể biết được sự màu mỡ của cánh đồng cổ xưa này. Nhưng những lớp đất sét trên cánh đồng Hamu Nulank không chỉ đem đến mùa màng bội thu, mà nó còn là nguyên liệu để làm gốm.
Hơn một nghìn năm qua, người Chăm ở đây đã khai thác đất sét trên cánh đồng để theo đuổi nghề gốm được ông tổ Po K’long-chank truyền dạy. Không biết bao đấu đất sét đã được moi lên, không biết bao xe bò đã chở đất sét về làng?
Nếu như ở những mỏ đất sét khác, có lẽ nơi đây đã thun thút vực sâu, đáy thẳm sau hơn một thiên niên kỷ khai thác. Tuy nhiên, nơi đây vẫn bằng phẳng, đầy đặn như từ thuở khai thiên lập địa.
Bởi vì khi nước sông Quao dâng lên, những hố đất lại được bồi đầy, như thể không có tổn thất xảy ra. Đất trên cánh đồng đã hóa thân thành chum, vại, tượng, phù điêu... nhưng sông Quao đã nhanh chóng đền bù bằng lượng đất mới trong mỗi đợt dâng tràn.
Nhìn từ phương diện địa lý, cánh đồng Hamu Nulank nằm ở ngã 3 sông Quao, và khi trời mưa to, nước sông Quao lại dâng lên khiến cánh đồng bị ngập trắng. Chính trong thời gian này, cánh đồng được bồi đắp phù sa lẫn đất sét từ thượng nguồn đưa xuống.
Trong truyện cổ tích Việt Nam, chúng ta đã từng biết tới chiếc niêu cơm thần kỳ của chàng Thạch Sanh, chỉ rất bé nhưng có thể giúp quân của 18 nước ăn đến no nê bởi cứ xới hết cơm là trong niêu lại đầy ắp cơm. Đất sét trên cánh đồng Hamu Nulank cũng thần kỳ như vậy nhờ sông Quao.
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu về văn hóa Chăm lẫn các nhà địa chất vẫn chưa thể lý giải được hiện tượng “đất lấy mãi mà vẫn còn nguyên” ở triền sông Quao. Sông Quao đã chảy qua vùng kỳ lạ nào để lấy được thứ phù sa có thể biến thành đất sét ở nơi này?
Tại sao thứ phù sa đó chỉ biến thành đất sét, chứ không phải thứ đất nào khác? Càng kỳ lạ hơn bởi cũng ở cánh đồng Hamu Nulank này, trong diện tích hơn 190ha, nhưng chỉ khoảng 30 - 40 ha là có đất sét nằm ở chân ruộng cao sát ngay nguồn nước.
Đất sét ở đây có đặc điểm rất đặc biệt khi cho nước vào nhào nặn thì rất dẻo, có độ quánh và mịn. Khi nặn gốm và đem vào lò nung thì gốm không bị nứt. Chính vì thế, ở nơi đồng lúa bát ngát sắp bước vào vụ thu hoạch này, chỉ vài tuần nữa thôi, sẽ diễn ra cảnh nhộn nhịp lấy đất sét đưa lên xe bò chở về làng.
Quy trình lấy đất sét ở đây cũng đơn giản như lấy đất làm gạch. Người dân cào đất trên bề mặt ruộng, bỏ qua một bên, đào lấy đất sét bên dưới, sau đó lấp lại như cũ. Cứ như thế, đào đất sét cả nghìn năm, mà chỗ lấy đất ấy vẫn không có dấu hiệu tiêu biến lớp đất sét hay thành hố, thành vực.
Lấy mất rồi lại tràn đầy, đó chính là điệu luân vũ bất tận của con sông Quao nhằm giúp người Chăm ở Bàu Trúc có nghề gốm cổ truyền mưu sinh và bảo tồn văn hóa dân tộc. Điệu luân vũ đó cũng đã đi vào hình thể, chuyển động của người làm gốm trong quá trình sản xuất.
Gốm Bàu Trúc không sử dụng bàn xoay như ở các làng gốm khác tại Việt Nam và trên toàn giới. Bàn gốm của người Chăm Bàu Trúc là bất động, không xoay tít mù do đạp bằng chân hay xoay bằng tay. Bàn làm gốm bất động nhưng con người chuyển động.
Khi tạo hình, nghệ nhân làm gốm dùng tay để vuốt nặn và xoay người xung quanh bàn gốm để điều chỉnh hình dáng của sản phẩm. Chuyển động của đôi chân, mông, eo, lưng lúc theo chiều quay của kim đồng hồ, lúc ngược chiều kim đồng hồ thật nhịp nhàng và duyên dáng.
Vũ khúc đó của nghệ nhân làm gốm đồng nhịp với điệu luân vũ của sông Quao trong việc bảo tồn nguồn đất sét quý giá dành cho nghề gốm. Khi làm gốm, nghệ nhân cũng bước vào một vũ điệu sáng tạo và lao động, để rồi thổi được hồn Chăm vào từng hạt sét, từng thớ đất.
Gốm Bàu Trúc không chỉ chứa đựng những câu chuyện về đời sống và văn hóa của người Chăm mà còn cả những vũ điệu. Nhìn ngón tay của nghệ nhân làm gốm điêu luyện dùng cuộn vải đã thấm nước để chà láng thân gốm mộc không khác gì ngón tay cong cong trong điệu múa của vũ nữ Áp-sa-ra.
Hơn 1.000 năm đã trôi qua, nhưng dòng sông Quao vẫn miệt mài luân vũ bồi hoàn để nghề gốm của người Chăm ở Bàu Trúc tồn tại. Điệu luân vũ đó sẽ xoay chuyển đến vô cùng...
HẢI AN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét