Tọa lạc tại số 3 Lê Trực, TP Huế, điện Long An là một
trong những công trình tiêu biểu của Kinh thành Huế xưa. Một trong những
nét đặc sắc của cung điện này là nội thất được trang trí bằng những bài
thơ chữ Hán của vua Thiệu Trị.
Nổi tiếng nhất trong số những bài thơ này là hai bài thơ "Vũ trung sơn
thủy" (Non nước trong mưa) và "Phước viên văn hội hương dạ mạn ngâm"
(Đêm thơ ở phước Viên) được khảm xà cừ trên hai bức vách gỗ của cung
điện
Cả hai bài thơ không viết theo lối thường mà trình bày theo kiểu "hồi
văn kiêm liên hoàn" với năm vòng tròn đồng tâm, mỗi vòng tròn có một số
chữ, nhìn giống trận đồ bát quái. Mỗi bài thơ tổng cộng có 56 chữ, bằng
số chữ một bài thơ thất ngôn bát cú
Hai bài thơ được đọc theo cách lấy câu, hay chữ ở một vị trí nào đó làm
đầu câu, đầu chữ đều có thể tiếp nối liên tục thành một bài thơ theo
cách thức mới
Bản thân vua Thiệu Trị không đưa ra lời giải cho hai bài thơ mà
chỉ gợi ý về cách đọc và thách các quan đại thần tìm ra 64 cách đọc
trong mỗi bài thơ đó
Trong gần hai thế kỷ, hai bài thơ "lạ" của vua Thiệu Trị đã làm "lao tâm khổ tứ" biết bao nhiêu người yêu thích chữ nghĩa
Năm 1972, trên tạp chí của Hội Nghiên cứu Đông Dương, Pierre Daudin, một
học giả phương Tây, đã giải ra 12 bài thất ngôn bát cú. Năm 1995 nhà
nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Tân Phong tìm ra đúng 64 cách
Năm 1998, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn tìm thêm 64 cách nữa, tức là tới 128 bài trên một bài thơ
Về cách giải, các học giả đã dày công nghiên cứu, vạch ra những đường
nét chính để mọi người theo đó suy ra, đọc tiếp, ví dụ như là đọc ngược
lại, bớt đi hai chữ đầu hoặc hai chữ cuối...
Theo thống kê, trong 128 bài thơ con thì có 64 bài thất ngôn bát cú (bảy
chữ tám câu) và 64 bài bao gồm các thể thất ngôn tứ tuyệt (bảy chữ bốn
câu), ngũ ngôn tứ tuyệt (năm chữ bốn câu), ngũ ngôn bát cú (năm chữ tám
câu)…
Sau đây là một ví dụ về cách giải thơ mà cách mà các nhà nghiên cứu Hán Nôm đã chỉ ra từ bài "Vũ trung sơn thủy".
hiên âm chữ Hán của một cách đọc: Loan hoàn vũ hạ giang triều tấn/
Trướng dật phong tiền ngạn biện thanh/ Sơn tỏa ám văn thôi trận trận/
Lãng sinh khiêu ngọc địch thanh thanh/ Sàn sàn thủy giản đài tư nhuận/
Dụng dụng ba chân liễu mậu vinh/ Nhàn diếu nhất chu ngư dật tấu/ Hướng
lâm song tiễn yến phí khinh
Dịch thơ tiếng Việt: Dồn mưa nước cuộn triều dâng ngập/ Lộng gió sông
dào bến biếc xanh/ Non phủ kín mây tuôn tới tấp/ Sóng khêu thưa giọt gõ
lanh canh/ Lan man suối trải rêu tươi mập/ Sóng sánh cồn vươn cỏ tốt
xanh/ Nhàn thoáng một câu, thuyền nhẹ tắp/ Dóng rừng dăng kéo én bay
nhanh
Chuyển thành thơ 5 chữ bằng cách bó hai chữ đầu mỗi câu: Nước cuộn triều
dâng ngập/ Sông dào bến biếc xanh/ Kín mây tuôn tới tấp/ Thưa giọt gõ
lanh canh/ Suối trải rêu tươi mập/ Cồn vươn cỏ tốt xanh/ Một câu, thuyền
nhẹ tắp/ Dăng kéo én bay nhanh
Từ bản dịch đầu đọc ngược lại và đảo vế: Xanh bến biếc dào sông gió
lộng/ Ngập triều dâng cuộn nước mưa dồn/ Canh lanh gõ giọt thưa khêu
sóng/ Tấp tới tuôn mây kín phủ non/ Xanh tốt cỏ vươn cồn sánh sóng/ Mập
tươi rêu trải suối man lan/ Nhanh bay én khó dăng rừng dáng/ Tắp nhẹ
thuyền câu một thoáng nhàn
Dù cách giải hai bài thơ "bí ẩn" còn nhiều tranh cãi, nhưng có thể khẳng
định vua Thiệu Trị là một vị vua có tài sử dụng ngôn ngữ tuyệt vời.
Trong sự nghiệp của mình, vua Thiệu Trị nổi tiếng là một vị vua thi sĩ,
có để lại rất nhiều bài thơ. Hai bài thơ nổi tiếng nhất của ông chính là
hai bài Vũ Trung Sơn Thủy và Phước Viên Văn hội lương dạ mạn ngâm được
khắc ở điện Long An
Các nhà nghiên cứu hiện đại đánh giá, đây là hai kiệt tác trong hệ thống
thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, đã được công nhận là Di sản Tư
liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới vào năm 2016. (Hình ảnh trong bài
được thực hiện với sự đồng ý của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế).
Quốc Lê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét