2 thg 7, 2014

Có một nhà văn bút danh Đồng Nai

Ông là một nhà văn lớn của Việt Nam. Trước 1975, trong chương trình Tiểu học (cấp 1) đã có học các tác phẩm của ông ở môn Quốc văn (tức môn Văn bây giờ).

Theo Nguiễn Ngu Í, ông là một trong "tam kiệt" sáng tác nhiều nhất của Việt Nam (cùng với Lê văn Trương và Hồ Biểu Chánh).

Bút danh của ông là Bình-Nguyên Lộc - ông nhắc: chữ Bình và Nguyên có gạch nối, chữ Lộc thì không - bình nguyên là đồng, còn lộc là nai. Bình-Nguyên Lộc là Đồng Nai.

Ông sinh ra ở Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (hiện nay thì Tân Uyên thuộc Bình Dương). Nơi ông sinh ra cách bờ sông Đồng Nai chừng hơn 100 met, con sông Đồng Nai và vùng đất Đồng Nai đã là chất liệu để ông viết nên phần lớn các tác phẩm của mình (tiểu thuyết, truyện ngắn, biên khảo).

Năm 1959, tiểu thuyết Đò dọc của Bình-Nguyên Lộc đoạt Giải thưởng Văn chương Toàn quốc (Việt Nam Cộng Hòa). Thời gian 1970-1975 ông làm ủy viên Hội đồng Văn hóa Giáo dục Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa). Năm 1985 ông sang định cư tại California, Hoa Kỳ và mất ở đó năm 1987.

Vì Bình-Nguyên Lộc là một nhà văn nổi tiếng ở chế độ cũ, lại định cư ở Mỹ vào cuối đời nên những thông tin nhắc nhở đến ông sau này khá ít ỏi, tác phẩm ít được tái bản, và giới trẻ hầu như không biết tới ông.

Nội dung viết về Bình-Nguyên Lộc sau đây được trích từ Địa chí Đồng Nai - công trình biên khảo chính thống của Đồng Nai - nhằm để giới thiệu về ông với những người chưa biết và để những người yêu mến ông thấy được cách nhìn nhận, đánh giá chính thức của Nhà nước đương thời về nhà văn Đồng Nai này:



Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7-3-1914 tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là thị trấn Uyên Hưng, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Bình Nguyên Lộc là một trong số ít các cây bút thời bấy giờ được học hành đến nơi đến chốn (đỗ Tú tài niên khóa 1933 - 1934). Gặp lúc kinh tế khó khăn, Bình Nguyên Lộc đi làm nhân viên kho bạc Sài Gòn, và bắt đầu sáng tác văn chương,  cộng tác với các báo Tin Điển, Sài Gòn, Dân Báo... Dương Tử Giang là người bạn thân. Rồi Bình Nguyên Lộc cộng tác với báo Thanh niên của nhóm Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng và Mai Văn Bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, Bình Nguyên Lộc về quê, làm cán bộ tuyên truyền của huyện Tân Uyên, là thành viên Hội văn hóa cứu quốc tỉnh Biên Hòa. Từ năm 1950 trở đi, Bình Nguyên Lộc sống tại Sài Gòn, viết báo, viết văn chuyên nghiệp, không làm công chức cho chế độ thực dân. Năm 1952, Bình Nguyên Lộc chủ trương tuần báo văn nghệ, y học Vui sống; năm 1956, cùng các bạn hữu cho ra đời tuần báo Bến Nghé, một tờ báo có tinh thần văn nghệ lành mạnh, mang đậm sắc thái Nam bộ, nhằm khơi gợi hào khí Đồng Nai khi xưa. Sau năm 1975, Bình Nguyên Lộc ở lại Sài Gòn, nhưng sau đó lâm bệnh nặng phải sang Mỹ theo sự bảo lãnh của con. Bình Nguyên Lộc mất nơi xứ người ngày 7-3-1987.

Bình Nguyên Lộc xuất hiện trên văn đàn muộn, những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, lại viết chưa nhiều. Nhưng từ đó về sau, Bình Nguyên Lộc là một trong những nhà văn có khối lượng tác phẩm đồ sộ nhất ở miền Nam và trên nhiều lĩnh vực.

Về sáng tác, có các tác phẩm chính: Các tập truyện ngắn: Nhốt gió (Nxb. Thời Thế,1950), Ký thác (Bến Nghé, 1960), Mưa thu nhớ tằm (Phù sa, 1965), Tâm trạng hồng (Sống vui, 1963), Tình đất (Tia sáng, 1966), Nụ cười, nước mắt học trò (Miền Nam, 1967), Cuống rún chưa lìa (Lá Bối, 1969). Tiểu thuyết: Đò dọc (Bến Nghé, 1958), Gieo gió gặt bão (Bến Nghé, 1959), Tân liêu trai (Bến Nghé, 1959), Nhện chờ mối ai (Nam Cường, 1962), Nửa đêm trảng sụp (Nam Cường, 1963), Mối tình cuối cùng (Thế Kỷ, 1963), Ái ân thâu ngắn cho dài tiếc thương (Thế Kỷ, 1963), Hoa hậu bồ đào (Sống Vui, 1963), Bóng ai qua ngoài song cửa (Thế Kỷ, 1963), Bí mật của nàng (Thế Kỷ, 1963), Xô ngã bức tường rêu (Sống Mới, 1963), Đừng hỏi tại sao ? (Tia sáng, 1965), Quán tai heo (Văn Xương, 1967), Uống lộn thuốc tiên (Miền Nam, 1967), Một chàng hai nàng (Thụy Hương, 1967), Trăm nhớ ngàn thương (Miền Nam, 1967), Diễm Phượng (Thụy Hương, 1967)...

Ngoài ra, Bình Nguyên Lộc còn viết nhiều tác phẩm về ngôn ngữ học, dân tộc học, nghiên cứu văn học, sáng tác thơ, sưu tầm văn hóa dân gian. Tiêu biểu là các tác phẩm: Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (Bách Khoa, 1971), Lột trần Việt ngữ (Nguồn xưa, 1972), Tự vựng đối chiếu 10 ngàn từ (1971)...

Sáng tác đầu tay của Bình Nguyên Lộc là truyện ngắn Câu dầm được một người bạn gửi cho hai nhà thơ Xuân Diệu và Huy Cận, lúc bấy giờ đang ở Sài Gòn. Hai thi sĩ nổi danh của phong trào Thơ Mới rất tán thưởng, đã đưa đăng báo Thanh niên vào năm 1942. Truyện ngắn Câu dầm sau được tác giả đưa vào tập Hương gió Đồng Nai. Rất tiếc, tập bản thảo này, gồm nhiều truyện ngắn và tùy bút, đã bị thất lạc hầu hết khi quân Pháp đánh chiếm quê hương ông, huyện Tân Uyên.Trước và sau năm 1945, Bình Nguyên Lộc còn dành nhiều tâm huyết để sưu tập hàng ngàn câu ca dao, dân ca trong công trình rất công phu: Thổ ngơi Đồng Nai. Mở đầu công trình này, Bình Nguyên Lộc có viết bài thơ nói lên tình yêu tha thiết của mình đối với quê hương và văn hóa dân tộc:

...Kẽo kẹt xà nhà tiếng võng đưa
Đâu đây đồng vọng của xa xưa:
Thổ ngơi thơm phức: hồn mả cũ,
Lòng rộn vui mà mắt lệ mờ.
...
 - Ngược dòng năm tháng, mấy trang này
Những ánh tuyết xưa gợi lại đây.
Gởi cả muôn thương cùng vạn nhớ
Tân Uyên, đất má, thảm vơi đầy!
 (Dâng má thương)

Nhưng tác phẩm đáng ghi nhận của Bình Nguyên Lộc những năm kháng chiến chống thực dân Pháp là tập Nhốt gió (Nxb. Thời Thế, 1950) gồm 13 truyện ngắn, được giới cầm bút thời bấy giờ rất hoan nghênh. Truyện ngắn Không trốn nữa kể chuyện một gia đình bác sĩ tản cư, toan trốn về thành vì thèm nhớ những mùi vị quen thuộc của phố phường: những miếng đường, miếng mỡ, món thịt ram cuốn bánh tráng... Nhưng vị bác sĩ kia, trong giây phút nhìn lại mình,  “một niềm tủi nhục minh mông bỗng trào lên, vặn thắt trái tim không bao giờ biết thổn thức của bác sĩ lại. Bác sĩ cúi gầm mặt xuống chiếc bàn cũ. Trong giây phút những hình ảnh xưa ở đâu hiện về chớp nhoáng: hai người bịnh nghèo ăn cắp giá xào nhau, mười lăm năm trước; những người nhà quê bu quanh một cái hòm, ăn nhậu; những miếng thịt heo đút lò, cả chống mỡ, trong đình làng...”. Và “Sự thật nảy ra như tia lửa trong một buổi sáng thèm thịt, nơi óc một người rất lười nghĩ nầy, làm ông ta lảo đảo. Ông nghe cả một sự sụp đổ trong người ông. Sự sụp đổ của nhơn sinh quan sẵn có của ông. Sự thật đầu tiên, đến tóc bạc hoa râm của ông mới tìm thấy ”. Thế là, “ba chơn, bốn cẳng, ông chạy u về nhà, miệng lẩm bẩm: Thôi không thèm trốn nữa”. Truyện ngắn này, đương thời, khi mới đăng báo, Dương Tử Giang nhận xét: “Trong năm năm nay, tôi chưa được đọc truyện ngắn nào hay như vậy ([49]). Đặc biệt, truyện ngắn được lấy làm tên chung cho cả tập, Nhốt gió, miêu tả về một thằng bé chơi trò cất nhà bị gió thốc đổ. Tức tối, cậu bé cởi quần đưa về trước gió: “Nhốt mầy lại coi mầy còn phá nữa hết” . Nhưng rồi, “Gió chun vào thổi phồng quần lên. Hai ống quần bọc no nứt gió, bay ngang trên không trung như hai khúc dồi. Nó vừa túm lưng quần lại để gói gió trong ấy, thì chợt nhận ra rằng ở đâu cũng có gió hết (...) Đứa bé luýnh quýnh vì gió nhiều quá không biết đâu mà hốt cho hết...”.  “Nhốt gió” là một ẩn dụ nghệ thuật về hành động của thực dân Pháp đối với Việt Nam “khi toan nhốt phong trào lớn của dân ta chống ngoại xâm”, nhưng “gió là giông tố cách mạng chẳng ai nhốt lại được”.

Các bạn có thể đọc thêm về tiểu sử của Bình Nguyên Lộc do Tống Diên là thứ nam của ông biên soạn (file PDF, download tại đây)

Các bạn cũng có thể đọc trọn bộ tiểu thuyết Đò dọc của ông 
(file PDF, download tại đây).

Photobucket
Thị trấn Uyên Hưng, nơi ra đời của Bình Nguyên Lộc, ngày nay (Ảnh: Phạm Hoài Nhân, tháng 2/2009)

Photobucket

Photobucket
Đoạn sông Đồng Nai ở Uyên Hưng. Ảnh: Phạm Hoài Nhân

Phạm Hoài Nhân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét