“Bà
Rịa ở địa đầu biên giới trấn Biên Hòa, là đất có danh tiếng, cho nên
các phủ phía Bắc có câu ngạn rằng, “cơm Nai Rịa - cá Rí Rang” ấy là lấy
xứ Đồng Nai mà Bà Rịa đứng đầu mà bao gồm cả Bến Nghé, Sài Gòn, Mỹ Tho,
Long Hồ vậy”. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài
Đức đã chép như vậy. Gần đây, tin tức về những hoạt động thiết thực kỷ
niệm 300 năm Đồng Nai - Biên Hòa, 300 năm Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh
khiến các độc giả Bà Rịa - Vũng Tàu cũng thảo luận thật sôi nổi một vấn
đề: lịch sử hình thành vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu và nguồn gốc địa danh
Bà Rịa. Sau cuộc tranh luận hết sức sôi động suốt một ngày ròng tại
cuộc Hội thảo khoa học ngày 25-9-1998 do Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức
về Nhân vật chí tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, chúng tôi lại được tham
dự cuộc hội thảo rất thú vị về ngôi mộ bà Nguyễn Thị Rịa do huyện ủy
Long Đất tổ chức ngày 7-10-1998 tại xã Tam An, truyền rằng đó là nơi bà
có công khai hoang, lập làng và bà mất ở đấy. Và quả là ít có một nhân
vật lại có trong nhiều truyền thuyết như Bà Rịa.
Cuộc Hội
thảo ngày 7-10-1998 tại Tam An do Huyện ủy Long Đất chủ trì, bàn về
ngôi mộ và việc trùng tu ngôi mộ Bà Rịa. Đây là ý nguyện của các bậc lão
làng đã đề xuất với các cấp lãnh đạo nhiều năm nay mà chưa có điều kiện
giải quyết. Một trong những trở ngại lớn là là có khá nhiều truyền
thuyết về Bà Rịa, về ngôi mộ Bà Rịa, các truyền thuyết có nhiều chỗ khác
nhau, có chỗ như thực như ảo, kể cả sự hiện hữu của ngôi mộ Bà Rịa cũng
như có, như không...
Cuộc Hội
thảo lần này, Huyện ủy Long Đất đã mời các vị bô lão trong làng, các
ban ngành trong huyện, trong tỉnh và một số nhà nghiên cứu. Hơn mười vị
bô lão đã về dự, các cụ đều sinh ra ở các làng Phước Hưng, Tam Phước,
Hắt Lăng, An Ngãi, Long Điền..., trung tâm của huyện lỵ Phước An xưa,
một trong những bến đậu đầu tiên của cộng đồng người Việt vào khai phá
và lập nghiệp ở xứ Đồng Nai. Nhiều tuổi nhất là các cụ Võ Văn Phát (86
tuổi ở làng Phước Hưng, Tam An), cụ Trương Vạn (86 tuổi ở làng Hắt Lăng,
Tam An), ít tuổi hơn cả là cụ Huỳnh Văn Bộ, 66 tuổi, ở làng Hắt Lăng,
nay thuộc xã Tam An.
Dù đã cao niên, các cụ còn khoẻ, minh mẫn, say sưa với những truyền
thuyết mà các bậc tiền nhân truyền lại. Các cụ đều thừa nhận rằng, so
với truyền thuyết về Bà Rịa thì các cụ chỉ là hậu sinh, nghe lại; về
ngôi mộ Bà Rịa, các cụ cũng không ai chứng kiến thực hư, chỉ nghe vậy,
biết vậy. Truyền thuyết về Bà Rịa được trình bày khá kỹ trong phát biểu
của cụ Huỳnh Văn Bộ, 66 tuổi, ở làng Hắt Lăng (Tam An). Chuyện này cụ
chép lại ngày 6 tháng ba âm lịch năm Giáp Tý (1984) từ bản chép tay của
cụ Tư Phò, người cùng làng, nay đã mất. Chúng tôi lược ghi lại đây, theo
bút tích của cụ Huỳnh Văn Bộ:
“Vì là thứ dân nên sử sách không ghi chép, hoặc đã quá lâu nên lạc mất cũng nên.
“Trong dân gian, ít ai hiểu biết đời tư của Bà...
“Văn
kiện để lại, thời vua Minh Mạng, năm thứ 12, là Bà Rịa quê ở Phú Yên,
gia đình nghèo, theo cha mẹ vào Nam năm 15 tuổi, đời chúa Nguyễn Phúc
Tần, Bà về lập thân tại Long Lập (xã Long Phước ngày nay) và chết ở làng
Phước Liễu (nay thuộc xã Tam An), nơi bà có công sáng lập.
“Bà
sống trọn đời độc thân, không chồng không con, bà thọ 94 tuổi, nhắm
khoảng năm 1759, thời vua Lê Hiếu Tông, niên hiệu Cảnh Hưng và chúa
Nguyễn Phúc Khoát, nghĩa là bà về Nam khoảng năm 1680, chết 1759.
“Bởi
không biết rõ họ nên người đời tục gọi là Bà Rịa. Hiện ngôi mộ Bà còn
lại ở Tam Phước, cách 100m cạnh hương lộ Long Điền - Long Mỹ.
“Vì
là thứ dân, bà chết trong thầm lặng, ngôi mộ bà không ai để ý. Năm
1936, tên tuổi bà mới có cơ được nhắc nhở,ngôi mộ bà mới được trùng tu
sửa chữa. Nguyên do có cuộc tranh chấp đấu giá công điền tỉnh Bà Rịa,
xét sổ bộ xã Tam Phước, quận Long Điền là (ruộng công) nhiều hơn hết,
thuộc phần di sản của tiền nhân là Bà Rịa khi xưa để lại mới cho phép
nông dân trong quận được đấu giá 2/3 công điền xã Tam Phước.
“Quận
trưởng Long Điền là Nguyễn Ngọc Tương đích thân xuống tại Tam Phước tìm
mộ Bà Rịa cho sửa sang, lệnh cho Tam Phước trích sổ tiền công nho của
xã dành đặc biệt cho việc cúng kiếng, thờ phượng gọi là nhớ ơn.
“Năm 1945 (ngôi mộ) lại hoang phế, thành một khối đá đen sì, loang lổ nằm lẻ loi trên một khoảng đất hoang phế lạnh.
"Năm
1972, sửa lại lần thứ hai, khởi sự đưa thờ bà trong đình thần Phước An
(xã Tam Phước), chờ ngày đất nước hòa bình sẽ lập đền thờ bà.
Về công đức của bà, bút tích của cụ Huỳnh Văn Bộ chép lại:
“Ban
đầu (bà) khai phá Mô Xoài, Đông Bắc dinh Phủ 5km, tức là phần ruộng
Đồng Xoài thuộc Long Điền, Long Kiên, kế đến Mỹ Khê, gần 10.000 thước về
phía Đông, nằm sát Kho Vua, Bưng Bạc.
“Khi
ấy Mỹ Khê đồng lầy, lau sậy mù mịt, đầy ma thiêng chướng khí, tiền nhân
chưa xây dựng làng mạc mà chỉ khai phá gần 300 mẫu ruộng vườn. Đó là
Đợt I (khai phá) mà Bà Rịa là trẻ nhất trong đoàn, dự một phần đắc lực ở
Mỹ Khê.
“Do
địa thế bất lợi, bệnh tật chết chóc hàng loạt ở Mỹ Khê, tiền nhân bỏ Mỹ
Khê lui về Long Điền, Long Lập, Gò Dầu (An Nhất) Phước Thiện (An Ngãi),
thì Bà Rịa theo cha mẹ về Long Lập sinh sống.
“Đợt
(khai phá thứ) II (1698-1700), Bà Rịa một lần nữa xung phong hướng dẫn
đoàn người khai phá tiếp phần đất trống Mỹ Khê trên 300 mẫu ruộng, chạy
dài về Đông Nam hơn 10.000 thước, phỏng độ hai đợt gần 1.500 mẫu ruộng
vườn. Bà có công khai khẩn, tự lực tự cường, tăng phần lương thực nuôi
quân, công cao đức dày, trọn đời hi sinh cho đất nước, chẳng màng danh
lợi....
“Vua
Minh Mạng ngưỡng mộ tài đức của bà, cho bà giữ nguyên họ vua, ghi thêm
hai chữ sương phụ Nguyễn Thị Rịa. Cũng năm 1831, nhà vua đem tên bà vào
lịch sử, đặt tên đầu tỉnh (tỉnh Bà Rịa) là cốt yếu đề cao một phụ nữ
thuộc hàng ngũ dân dã...
Về sự thờ cúng bà, bút tích của cụ Huỳnh Văn Bộ chép:
“Việc
làm của vua Minh Mạng trong chế độ phong kiến thật là một vấn đề bình
dân. Năm 1972, nhân có phong trào phục hưng xứ sở, (xem lại việc thờ
cúng, thấy) Long hải thờ Nguyễnh Huỳnh Đức, Phước Tỉnh thờ Võ Tánh, Tam
Phước thờ Châu Văn Tiếp và Nguyễn Hữu Dực, người địa phương mới nhớ ơn
bà, góp của góp công trùng tu ngôi mộ (và khởi sự đưa thờ bà trong đình
thần Phước An (xã Tam Phước).[1]
2. Truyền thuyết Bà Rịa, đôi điều đáng bàn:
Truyền thuyết về
Bà Rịa đã có nhiều sách chép, có nhiều chỗ khác nhau. Trong một số cuốn
sách đã xuất bản có nói về nguồn gốc địa danh Bà Rịa đặt ra là để tưởng
nhớ công đức bà Nguyễn Thị Rịa. Cuốn Châu Thành đấu tranh và xây dựng[2] (1945-1985) viết: "
"Địa danh Bà Rịa có từ lúc nào ? Theo thư tịch cổ, Bà Rịa người gốc Phú
Yên theo gia đình vào Nam tìm đất sống từ năm 1680. Gia đình bà vào tại
làng Mỹ Khê (Tam Phước, Long Đất). Bà Rịa cùng với nhân dân đã khai phá
rừng rậm lập ruộng vườn, xây dựng làng xóm. Năm 1698, Chưởng Cơ Nguyễn
Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh) được chúa Nguyễn Phúc Chu cử kinh lý đất phía
Nam khi quân đổ bộ lên Phước Lễ, lúc đó vừa bị một trận lụt lớn các cầu
đều bị trôi, đường đi lại bị hư hỏng. Bà Rịa đã huy động nhân dân trong
vùng tu sửa đường sá, bắc lại các cây cầu để quân chúa Nguyễn qua sông;
cảm kích công trạng này chúa Nguyễn đã ra sắc phong cho Bà Rịa "Hàm
Nghè" danh dự và cho bà được mang họ Chúa (!) (tức họ Nguyễn). Từ đó bà
được nhân dân quý trọng, tiếng vang khắp vùng. Năm 1759 Bà Rịa qua đời,
bà không có con cái, 300 mẫu ruộng của bà được sung vào công điền và
chia cho người nghèo. Dân làng nhớ ơn góp sức lập miếu thờ bà bên đường,
nay thuộc địa phận xã Tam Phước, huyện Long Đất ".[3]
Chúng tôi đã gặp gỡ các tác giả tham gia biên soạn cuốn sách này (Lê Phải, Trần Toản) thì được biết, “theo thư tịch cổ”là
các bạn đã dẫn theo một số cuốn sách viết trước đó, nhưng cũng không
biết chắc là cuốn sách nào. Về cơ bản, năm sinh, năm mất và công đức của
bà được trình bày trong cuốn Châu Thành đấu tranh và xây dựng giống như bút tích của cụ Huỳnh Văn Bộ. Nhưng về xuất xứ, bút tích của cụ Huỳnh Văn Bộ chép là “theo văn kiện, năm Minh Mệnh thứ 12” thì không có cơ sở. Sử sách triều Nguyễn không có chỗ nào ghi như vậy.
Việc vua Minh Mạng “ năm 1831, nhà vua đem tên bà vào lịch sử, đặt tên đầu tỉnh (tỉnh Bà Rịa) như
bút tích của cụ Huỳnh Văn Bộ cũng là phi lịch sử. Thời Minh Mạng, Bà
Rịa chưa có tên trên bản đồ. Từ năm 1698, vùng đất Bà Rịa ngày nay bao
gồm cả Vũng Tàu còn là tổng Phước An thuộc dinh Trấn Biên. Năm 1806 dinh
Trấn Biên đổi làm trấn Biên Hoà, tổng Phước An thăng làm huyện. Thời
Minh Mạng, năm 1832, nhà Nguyễn thành lập đơn vị hành chính mới, Trấn
Biên Hoà đổi thành tỉnh Biên Hòa, là một trong sáu tỉnh của xứ Nam Kỳ.
Năm 1837, nhà Nguyễn đặt phủ Phước Tuy coi hai huyện Long Thành và Phước
An. Huyện lỵ Phước An đặt ở An Điền (Long Điền), coi 4 tổng: An Phú
Thượng (12 làng), An Phú Hạ (8 làng), Phước Hưng Thượng (8 làng), Phước
Hưng Hạ (8 làng). Địa bàn huyện Phước An gần giống như tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu ngày nay. Sở lỵ Phước Tuy đặt tại Phước Lễ (tức thị xã Bà Rịa bây
giờ).
Năm
1865, thực dân Pháp chia toàn cõi Nam Kỳ thành 13 sở tham biện. Phủ
Phước Tuy của nhà Nguyễn bấy giờ được mang tên là sở tham biện Bà Rịa.
Ngày 5-1-1876, thực dân Pháp chia ba tỉnh Biên Hoà. Phủ Phước Tuy chính
thức mang tên là tỉnh Bà Rịa.
3. Địa danh Bà Rịa: sự nhầm lẫn giữa tên đất & tên người, giữa truyền thuyết và thư tịch:
Về vấn đề này, các tác giả cuốn Châu Thành đấu tranh và xây dựng (1945-1985) đã có sự nhầm lẫn giữatruyền thuyết và thư tịch cổ. Nhiều người sau đó cũng dẫn theo các tác giả Địa chí Bà Rịa 1902 và nhiều cuốn địa chí sau đó mà nói rằng theo thư tịch cổ.
Trước
khi người Pháp lấy tên Bà Rịa đặt cho vùng đất này thì chưa có một thư
tịch nào, một học giả nào, một công trình nghiên cứu nào của người Việt
Nam, của lịch sử Việt Nam, văn hóa Việt Nam nói về truyền thuyết Bà
Rịa, nói về Bà Rịa như một nhân danh.
Ai là người đầu tiên chép lại truyền thuyết về Bà Rịa? Các
tài liệu có niên đại sớm hơn cả hiện còn lưu trữ tại Thư viện Khoa học
xã hội thành phố Hồ Chí Minh và Thư viện Khoa học tổng hợp thành phố Hồ
Chí Minh cho biết: đó là các học giả người Pháp. Tạm coi cuốn sách xuất
bản sớm nhất viết về nhân vật bà Rịa là cuốn Địa chí tỉnh Bà Rịa và Thành phố Cap Saint-Jacques, in năm 1902[4] thì cũng chưa thể nói về truyền thuyết Bà Rịa là “theo thư tịch cổ” được. Các tác giả Địa chí Bà Rịa 1902 viết về cơ bản không khác gì một truyền thuyết dân gian trong vùng, tuy có đôi chỗ khác biệt về niên đại.
Ai đã xây ngôi mộ Bà Rịa? Theo
tài liệu đã dẫn trên thì bà Rịa vào khẩn hoang lập làng Phước Liễu năm
1789, và mất năm Gia Long thứ 2 (1803). Mộ Bà Rịa do Trường Viễn Đông
bác cổ học viện (E.F.E.O) xây, hiện còn ở cạnh hương lộ từ An Ngãi đi
Phước Hải.[5] Vậy
thì có phải người Pháp hiểu lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của
người Việt Nam hơn người Việt Nam không? Chắc là không phải như vậy. Họ
có thể có kiến thức giỏi về nhiều ngành khoa học, nhưng về lịch sử, văn
hóa, phong tục tập quán của người Việt Nam và đặc biệt là truyền thuyết
địa phương thì không thể nói như vậy được.
Một
khả năng khác đặt ra là có phải người Pháp quan tâm đến lịch sử, văn
hóa, phong tục tập quán và truyền thuyết của người Việt Nam hơn người
Việt Nam không? Họ có quan tâm, vì mục đích cai trị, nhưng không thể
hiểu hơn, vì điều đó là máu thịt, là bản thân cuộc sống của người Việt
Nam. Chính vì lẽ đó mà tất cả những tên đế quốc của các thời đại trước
đây đã thất bại trên đất nước này.
Người ta cũng có thể đặt ra một
khả năng khác là không phải nhân dân quên, truyền thuyết quên, lịch sử
lãng quên mà chính là các nhà viết sách quên, hoặc giả vì những quan
điểm hạn chế đương thời. Khả năng này không thể loại trừ. Bút tích của cụ Huỳnh Văn Bộ đã từng ngờ vực điều này: “Vì là thứ dân nên sử sách không ghi chép, hoặc đã quá lâu nên lạc mất cũng nên”, nhưng
thực tế không diễn ra như vậy. Sử sách đương thời, và cả những công
trình đã dẫn trong chuyên khảo này đều đề cập đến những nhân vật rất
bình thường như một Ông Từ đánh cọp; về những phụ nữ tiết phụ khả phong
như Hồ Thị Phân, viết về người khai hoang lập ấp mà chưa thành như Bà
Trao, viết về những nhân vật pha trộn giữa truyền thuyết và hiện thực
như Lê Nicô (Thị Vãi), về những con người truyền thuyết như Lê Thị Hồng
Thủy (Dinh Cô)...
Những nhân vật ấy về công đức chưa thể sánh với Bà Rịa (như truyền thuyết) được. Điều đó có nghĩa là: truyền thuyết Bà Rịa chưa từng có, chưa từng được ghi trong sử sách nước nhà, ít nhất là cho đến thời điểm ấy. Điều này có lẽ phù hợp với nhận xét được ghi trong bút tích của cụ Huỳnh Văn Bộ đã dẫn trên: “Trong dân gian, ít ai hiểu biết đời tư của Bà...”
Tuy
nhiên, nói vậy thật không thỏa đáng về công đức của Bà được ghi trong
truyền thuyết, thật không phải với các bậc tiền nhân cùng thời với Bà,
thật không phải với các thế hệ con cháu được hưởng lộc của Bà, từ 300
mẫu ruộng vườn ở Mỹ Khê đến 300 mẫu ruộng công của làng Phước Liễu... Vậy mà ít ai biết, ít ai nhớ, không ai thờ và không ai xây ngôi mộ Bà...
Ai là người đầu tiên chủ trương thờ cúng Bà Rịa? Theo
bút tích của cụ Huỳnh Văn Bộ thì đó là khi mà chính các quan Pháp tổ
chức việc xây mộ Bà (1936), để rồi một ông quan dưới quyền các quan
Pháp, “Quận trưởng Long Điền là Nguyễn Ngọc Tương đích thân xuống tại
Tam Phước tìm mộ Bà Rịa cho sửa sang, lệnh cho Tam Phước trích sổ tiền
công nho của xã dành đặc biệt cho việc cúng kiếng, thờ phượng gọi là nhớ
ơn” (?). Người chép truyền thuyết đầu tiên về Bà là các học giả
Pháp. Trước khi đó thì các quan Pháp đã lần đầu tiên lấy tên Bà Rịa đặt
cho cả một tỉnh (1876);
Theo
dòng lịch sử được phản ánh qua truyền thuyết mà bút tích của cụ Huỳnh
Văn Bộ đã chép lại, một lần nữa, truyền thuyết về Bà và ngôi mộ Bà lại
rơi vào quên lãng: “Năm 1945 (ngôi mộ) lại hoang phế, thành một khối đá đen sì, loang lổ nằm lẻ loi trên một khoảng đất hoang phế lạnh....” Cứ
như những tài liệu và sự kiện đã dẫn thì truyền thuyết và ngôi mộ Bà
sống trong chữ nghĩa và tâm tưởng của người Pháp hơn là với dân làng.
Vậy thì vì sao mà người Pháp có được truyền thuyết ấy, vì sao họ lấy tên
Bà Rịa đặt cho vùng đất này? Đương nhiên là họ cũng nghe lại, chép lại,
nhưng trong bối cảnh mà ngay cả những quan chức thực dân đương thời
cũng phải thừa nhận là từ quan lại, trí thức, đến những người dân bình thường có tâm huyết với dân tộc đều không hợp tác với thực dân Pháp.
Qua
bút tích của cụ Huỳnh Văn Bộ, chúng ta cũng được biết rằng, sau khi kết
thúc hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, không chỉ ngôi mộ hoang phế mà
ngay cả việc thờ phượng cũng rơi vào quên lãng. Mãi cho đến năm 1972, nhân có phong trào phục hưng xứ sở,
xem lại việc thờ cúng mới thấy xứ mình thờ những người ở đâu đâu (Châu
Văn Tiếp, Nguyễn Hữu Dực...) bèn góp công góp của trùng tu mộ, và “khởi sự đưa thờ bà trong đình thần Phước An”. Trong lời phát biểu, cụ còn cho biết, những năm gần đây, tục cúng Bà vẫn còn. Vì
không ai biết ngày mất của Bà nên cúng vào tiết Thanh Minh. Ai có lòng
thì góp tiền vào cúng. Năm rồi được 15 người, mỗi người góp 50.000đ,
mua xôi thịt về cúng...
4. Có một truyền thuyết khác về Bà Rịa:
Rốt
cuộc, có thể có một người phụ nữ tên là Rịa, nhưng không phải là người
như trong truyền thuyết mà người Pháp đã ghi. Có một truyền thuyết về bà
Rịa, nhưng truyền thuyết không phải như vậy. Có thể có một ngôi mộ bà
Rịa, nhưng không hẳn là ngôi mộ ấy. Có một truyền thuyết khác, của các
bô lão trong làng, được lưu truyền qua nhiều thời chống Pháp, chống Mỹ
đến thế hệ này. Nhiều người biết truyền thuyết này, họ từng làm Bí thư,
chủ tịch, Trưởng công an xã và giữ những cương vị chủ chốt ở nhiều
huyện, thị xã, thành phố hiện nay.
“Truyền
thuyết truyền rằng, người Pháp xây một ngôi mộ, gọi là mộ Bà Rịa, nhưng
thực ra là mộ một người hành khất, không rõ đàn ông hay đàn bà, không
biết người già hay người trẻ. Đó là một nấm mộ không tên, không người
thừa nhận.
“Truyền
thuyết truyền rằng, chuyện về bà Rịa, chẳng ai biết thực hư ra sao, chỉ
nghe nói thế, nghe nói có liên quan đến việc tranh chấp đất công của
làng với người Pháp, rồi quan Pháp về, quan Pháp khảo, khảo về bà Rịa,
khảo gốc tích, gia phả, gia tộc, phần mộ, tôn miếu... không ai biết gì
cả. Quan khảo riết, rồi mỗi người một phách, người nói gốc Bình Định,
người nói gốc Phú Yên, rồi chuyện không chồng, không con, không đền,
không miếu... Nhưng đến chuyện phần mộ mà cũng không nữa thì thật phiền
toái, đành phải chỉ một ngôi mộ như thế; thế rồi quan Pháp xây; cũng
chẳng sao, chúng nó ngu thì ông Hồ Đắc Thăng chửi. Làng chỉ cần giữ được
đất công, dân cần có ruộng cày ruộng cấy...
Truyền
thuyết này là có thật, nó vẫn lưu truyền cho đến tận bây giờ, trong
những con người sinh ra ở chính nơi ấy, công tác ở tại nơi ấy. Về mặt
truyền thuyết, nó chả thua kém gì truyền thuyết mà các quan Tây đã chép.
Chỉ có một điều, đó là truyền thuyết của làng, để truyền cho con cháu
làng biết, chứ không kể cho quan Tây ghi. Các quan Tây, làng đã kể cho
nghe truyền thuyết kia rồi...”[6]
Điều
đó cũng góp phần lý giải về nhận xét của nhiều người khi nói về sự hớp
tớp, thiếu chín chắn của người Pháp khi lấy tên Bà Rịa đặt cho vùng đất
này gắn với truyền thuyết về bà Nguyễn Thị Rịa và xây mộ Bà Rịa vào
những năm 1930 của thế kỷ này.
Trong
cuộc hội thảo (ngày 7-10-1998 tại Tam An), cụ Phạm Văn Của, 75 tuổi,
người làng Tam Phước (Tam An) cho biết, khi cụ 15 tuổi (1938), đã thấy
ngôi mộ ở đấy rồi. Cụ Võ Hiền Thọ, 79 tuổi, người làng Long Điền thì cho
biết, cụ biết đến ngôi mộ vào năm 1947, khi ấy ông chủ tịch quận Long
Điền là Hai Đạt cho nhập ba xã Phước Trinh, Phước An (Phước Liễu và An
Thới) lại, khi ấy, khu ấy không có nhà cửa gì, chỉ có một ngôi mộ trên
một khoảnh đất hoang rộng chừng một mẫu, gần một cây cầu...
Cụ
Phạm Văn Kẹp, 80 tuổi, ấp 2 xã Tam An cũng cho biết, chuyện cụ nghe
lại, cũng có hai tuyến dư luận về truyền thuyết, về ngôi mộ, ấy là do
hai làng tranh chấp với nhau, có cụ làng này, làng kia chỉ lộn ngôi mộ.[7]
Theo
như lời cụ Phạm Văn Kẹp thì cho đến khi mà người Pháp xây ngôi mộ này
(1936), các cụ già làng cũng không ai biết rõ thực hư về ngôi mộ và
truyền thuyết về bà Rịa.
5. Bà Rịa có thể không phải là tên người mà là một tộc danh:
Một
trong những hướng nghiên cứu đáng chú ý xưa nay là địa danh Bà Rịa, có
nguồn gốc từ một bộ tộc. Điều này sau được cụ Vương Hồng Sển trình bày
khá rõ trong cuốn Tự vị tiếng Việt miền Nam (xuất bản năm 1993) “...
không rõ bà gốc Chàm, thổ dân sơn cước hay Cơ Me. Duy biết chắc Thổ gọi
Iéay Ria (đọc là “Vây Ria”), vây là mụ, là bà lão, Ria là tên tộc.
Tương truyền bà là tiền hiền có công khai thác” (sđd, tr. 738,).
Trong
truyền thuyết, thường là có một phần sự thật nào đó và được thăng hoa,
cải biên trong quá trình truyền miệng của nhân dân. Truyền thuyết sẽ
đọng lại trong một chừng mực hợp lý, tương đối phù hợp với những kiến
giải đương thời. Nếu lấy mốc cuốn sách xuất bản sớm nhất có viết về nhân
vật bà Rịa là cuốn Địa chí tỉnh Bà Rịa và Thành phố Cap Saint-Jacques,
in năm 1902 thì có thể tạm coi là truyền thuyết về Bà Rịa xuất hiện
trước đó, hoặc cùng thời với bối cảnh thực dân Pháp xâm lược và đặt chế
độ cai trị vùng đất này. Song, theo như truyền thuyết được chép lại thì
Bà Rịa cũng chưa thuộc lớp người đầu tiên tới khai phá vùng đất Mô Xoài.
Bà
Rịa xưa vốn là vùng đất của người bản địa Châuro, Châumạ, Xtiêng sinh
sống. Tài liệu của các giáo sỹ người Pháp cho biết, người Việt đã vào
đây lập nghiệp từ thế kỷ XV-XVI, cho đến khi Chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu
Cảnh vào Nam kinh lược, lấy đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng
Nai làm huyện Phước Long (dinh Trấn Biên) lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân
Bình (dinh Phiên Trấn), vùng Sài Gòn, Đồng Nai đã có 40 ngàn hộ, ước
tính 200 ngàn dân. Khi ấy, theo truyền thuyết, một người có tên là Rịa
mới vào khai khẩn ở làng Phước Liễu (thuộc phủ Phước An, sau đổi thành
huyện Phước An).
Nếu
có một Bà Rịa như truyền thuyết người Pháp đã ghi lại thì công đức của
bà chưa sánh bằng một Bà Trao khai phá không thành một ấp ở Long Sơn;
chưa truyền thuyết bằng một bà vãi họ Lê ở núi Thị Vãi, chưa tín ngưỡng
bằng một cô gái truyền thuyết được lập miếu thờ ở Dinh Cô, để các nhà
làm sách, chép sử ghi lại.
Nhiều lắm, bà chỉ là một trong những người có công khai phá làng Phước Liễu. Bà Rịa, với tư cách là một địa danh chỉ là một trong sáu xứ của làng Phước Liễu, mà cả làng có 06 xứ, 24 sở chủ với tổng số 117 mẫu, 7 sào, 6 thước, 1 tấc Điền tô điền như
địa bạ triều Nguyễn đã ghi. Địa bạ lập ra sau khi Bà Rịa qua đời hơn 70
năm (theo truyền thuyết), nhưng phản ánh đúng thực trạng khai phá, quản
lý và sử dụng đất đai thời ấy. Ít ra, cũng không giống như truyền
thuyết mà nhiều sách đã chép rằng: sau khi bà qua đời, vì không có con, bà đã sung toàn bộ (hơn 300 mẫu đất) vào công điền. Các vị cao tuổi trong vùng vẫn thường nói rằng theo người xưa kể lại, không đâu có nhiều đất công Long Điền hơn 300 mẫu đất công trong vùng có được là nhờ công lao của Bà Rịa. Điều này không có cơ sở.
Quốc
sử quán của triều Nguyễn đã chép về 300 mẫu đất công của Long Điền. Đây
là sự kiện lịch sử có thật, nhưng vào thời mà Bà Rịa (theo truyền
thuyết) đã qua đời được ngót 80 năm, theo như bút tích của cụ Huỳnh Văn
Bộ hoặc ít nhất cũng hơn 30 năm theo sách Địa chí tỉnh Bà Rịa 1902 của các học giả Pháp. 300 mẫu đất công đó có tên tuổi, của người khai sáng rõ ràng.
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển XXVII, Tỉnh Biên Hòa, mục Núi Sông chép rằng: “Sông
Xích Lam: ở cách huyện Phước An 31 dặm về phía đông, đoạn giữa qua sông
có cầu dài 70 trượng 5 thước là chỗ đường bộ đi qua: ở hạ lưu cầu, sông
chảy ngoặt sang phía nam 3 dặm làm hải cảng Xích Lam... Ở bờ phía Đông
trước kia bị úng hủy, không tiện cho việc nông, năm Minh Mệnh thứ 19
mới khơi cho nước úng theo sông mà tiêu, khẩn được hơn 300 mẫu ruộng hoang làm ruộng công cho các xã thôn phụ cận.” [8]
Theo mô tả của Đại Nam Nhất Thống Chí thì
sông Xích Lam là Sông Ray mà hạ lưu phía đông của nó bao gồm các xã
vùng Long Điền, Đất Đỏ. Khu vực này xưa nhiều bàu trũng với câu ca trao
duyên “Bao giờ Bưng Bạc hết sình, Bàu Thành hết nước chúng mình hết thương”. Khu vực này đã được cải tạo thành cánh đồng lúa và tập trung 300 mẫu đất công ở đây.
Trong mục Từ Miếu (đền miếu), Đại Nam Nhất Thống Chí còn
cho biết rõ ông Hộ phủ Phạm Duy Hinh là người đào sông Xính Lam (khơi
úng hủy). Ở đấy, còn dấu tích là ngôi đền Hiên Ngọc hầu thuộc địa phận
thôn Phước Bảo Tây, huyện Phước An, thờ Tổng binh Hồ Văn Hiên, thời đầu
Trung hưng, theo cha là tổng binh Hồ Văn Qúy tập chức đồn binh ở đạo Nục
Giang, sau mất ở đấy, được hiển linh, thôn dân cầu khẩn việc gì đều
linh ứng. Năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), Hộ phủ Phạm Duy Trinh khơi úng
sông Xích Lam, đêm nằm mơ thấy, nên lập đền thờ ở đấy.
Việc
ấy, vùng ấy, còn dấu tích một làng mang tên Bờ Đập, còn dấu tích một
con đập được tu bổ và củng cố thường kỳ trong nhiều thập kỷ sau. Chứng
tích ấy còn xác đáng hơn nhiều so với ngôi mộ bà Rịa ở làng Tam An do
người Pháp xây vào thập niên 30.
6. Bà Rịa - trước hết là tên một vùng đất:
Vấn
đề này đã được nhiều sách báo, nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới,
chúng tôi xin đề cập vắn tắt lịch sử nghiên cứu vấn đề: Bà Rịa, xưa là nước Bà Lợi, Bà Lỵ, Bà Lịa. Đó là cách giải thích của Trịnh Hoài Đức, một học giả hàng đầu nghiên cứu về Lục tỉnh Nam Kỳ. Ông viết: ”Bà
Rịa là ở đầu biên giới trấn Biên Hòa, là đất có danh tiếng(...) Tân
Đường thư nói: Bà Lỵ ở ngay phía Đông Nam Chiêm Thành, từ Giao Châu đi
ghe theo biển, trải qua các nước Xích Thố, Đan Đan rồi đến Đại địa châu
Đà Mã (cũng gọi là Mã Lễ, quốc tục xỏ tai, đeo hoa, lấy một bức vải quấn
ngang lưng) (...) Chữ Lợi âm là lục địa thiết âm là “lịa” vậy nghi chữ
Bà Rịa tức nước Bà Lợi thuở xưa...”.[9]
Trịnh
Hoài Đức sinh trưởng tại Trấn Biên, học rộng tài cao, am hiểu sâu sắc
về vùng đất Nam Bộ nên các nhà nghiên cứu sau này đều trân trọng. Đại Nam Nhất Thống Chí, Quốc sử quán triều Nguyễn, được biên soạn trong 17 năm, (từ 1865 đến 1882), các tác giả có quan điểm gần với Trịnh Hoài Đức: Bà Rịa là tên núi, còn gọi là núi Bà Địa: “Núi Bà Địa ở Đông Nam huyện Phước An 8 dặm, núi đá lởm chởm ngó xuống chợ Long Thạnh, có đường lớn ngang qua...” [10] Trong mục Thị Điếm (chợ quán), Đại Nam Nhất Thống Chí nói rõ hơn: “Chợ Hắc Lăng: ở thôn Hắc Lăng, huyện Phước An, gần đó có núi Bà Rịa, có tên là chợ Bà Rịa”.[11]
Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (Imprimerie Rey, Couriol, Sài Gòn 1895): cũng giải thích tương tự:“Bà Rịa: tên xứ ở tại Hắc Lăng, bây giờ là tiếng kêu chung của cả hạt Phước Tuy” (SĐD, Tome 2, tr 256).
Các tác giả bộ “Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh” [12] khi viết về vùng đất này đã rất trân trọng và đồng kiến giải với Trịnh Hoài Đức trong sách Gia Định Thành thông chí: Bà Rịa = tên một vùng đất, một vương quốc, một bộ tộc; Bà Rịa = Bà Lỵ = Bà Lịa = Bà Địa.
Các tác giả tập sách Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển (Nhà
xuất bản Đồng Nai 1998) vừa ra mắt bạn đọc khi đề cập đến địa danh Bà
Rịa cũng nghiêng về kiến giải của Trịnh Hoài Đức: Bà Rịa = Bà Lịa = tên
một vương quốc; Bà Rịa = tên chợ (SĐD, tr 10; 12).
Ở
một đoạn khác, đề cập đến địa danh Bà Rịa, lần đầu tiên trở thành tên
một Sở tham biện (1865 Soái phủ Nam Kỳ chia ba tỉnh miền Đông thành 13
Sở Tham biện: Biên Hòa Thủ dầu Một, Bà Rịa, Long Thành, Bảo Chánh = đơn
vị hành chính tương đương cấp tỉnh), các tác giả sách Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển đã nhận xét:“bên
cạnh các địa danh Hán - Việt, có hai địa danh chữ Nôm: Thủ Dầu Một và
Bà Rịa. Nhà chức trách Pháp đặt địa danh tùy tiện như vậy vì các người
có học không cộng tác với địch.” (SĐD, tr 25).
Các tác giả Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển đã dẫn những tư liệu trong luận án tiến sỹ quốc gia Khoa học chính trị Đại học Paris của Cao Huy Thuần mang tên Đạo Thiên chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam để
minh chứng cho nhận xét trên. Theo lời của Đại tá Bernard viết trong
thư gửi về Bộ Hải ngoại và thuộc địa Pháp như Cao Huy Thuần đã dẫn trong
Luận án tiến sỹ thì các quan lại, các sỹ phu, các nhà nho đồng loạt
không hợp tác với thực dân Pháp nên trong buổi đầu thiết lập nền cai
trị, người Pháp phải “tuyển mộ toàn bộ những nhân viên cần thiết cho
sự cai trị hay cho việc nhà từ đám chủ yếu là culy, bồi, tùy phái và
những người thông dịch, sao chép, họ đã được huấn luyện sơ sài trong các
trường của Hội truyền giáo(....) Họ đến với chúng ta (Pháp) là những kẻ
lang thang, vì đói khổ hay vì phạm tội mà phải bỏ làng, họ rất quỵ lụy
và chỉ thèm được sống, không nghĩ gì đến cuộc chiến đấu của dân
tộc(....) Các Pháp kiều hay công chức (Pháp) vừa cập bến được biết về
dân tộc Annam qua sự tiếp xúc với những kẻ ti tiện đó...”[13]
Tư
liệu trên đây có thể cắt nghĩa phần nào về sự hiểu biết và quyết định
nông nổi của người Pháp khi lấy tên Bà Rịa đặt cho vùng đất này gắn với
truyền thuyết về bà Nguyễn Thị Rịa mà các tác giả tập sách Biên Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển đã
nhắc tới. Theo lời của một số vị bô lão ở Bà Rịa thì giáo sư Hồ Đắc
Thăng ở Bà Rịa đã viết thư cho một người bạn học (người Pháp) ở Viện
Viễn Đông Bác cổ (Hà Nội), nói về sự hớp tớp và thiếu chín chắn
của người Pháp trong việc lấy tên bà Rịa đặt cho vùng đất này gắn với
truyền thuyết về bà Nguyễn Thị Rịa và xây mộ bà Rịa.
7. Bà Rịa trước hết là một địa danh (không phải nhân danh):
Điều
này không chỉ khẳng định lại những quan điểm của các nhà nghiên cứu
hàng đầu về Lục tỉnh Nam Kỳ trong các tác phẩm đã dẫn, mà ngay đối với
các giáo sỹ, các quan chức thực dân Pháp, họ biết đến Bà Rịa trước hết là một địa danh.
Nhà nghiên cứu lão thành Nguyễn Đình Đầu đã dẫn tài liệu của một giáo sỹ Pháp về Các họ đạo của xứ Đồng Nai từ 1747 để kết luận rằng:” Tác giả Địa chí Bà Rịa 1902 đã
sai lầm khi nói đất Bà Rịa mới có hơn trăm năm nay, “một bà tên là Rịa
tới lập làng Phước Liễu rồi mất vào năm Gia Long thứ 2 tức 1803” (...)
Sự sai nhầm về “Bà Rịa mới lập làng Phước Liễu từ 1789” được đính
chính mạnh nhất khi tìm thấy địa danh Bà Rịa và Đất Đỏ đã được ghi vào
danh mục “các họ đạo của xứ Đồng Nai từ 1747”. Trong danh mục ấy còn ghi rõ Bà Rịa có 140 giáo dân và Đất Đỏ có 350 người theo đạo công giáo”.[14]
Tiến
sỹ Cao Huy Thuần, trong Luận án của mình cũng dẫn bức thư của Đô đốc
Charner gửi cho vị giám mục Pháp cai quản địa phận Sài Gòn về “Vụ Bà Rịa” (việc
nhà Nguyễn đàn áp giáo dân ở xứ Bà Rịa 1-1862, sau khi một nhóm giáo
dân vũ trang đã làm lực lượng xung kích cho thực dân Pháp đánh thành
Biên Hòa cuối năm 1861).
Bà Rịa vốn là địa danh, một vùng đất nhỏ, một trong 6 xứ rất nhỏ thuộc địa phận làng Phước Liễu, là tên một ngọn núi nhỏ thuộc địa phận Long Điền, là tên một cái chợ thuộc làng Hắt Lăng, được người Pháp gọi thành một xứ rộng hơn, xứ đạo Bà Rịa (thực
ra là họ đạo Bà Rịa lúc ấy còn nhỏ hơn họ đạo Đất Đỏ) nhân vụ rắc rối
về tôn giáo, sau được một số quan chức Pháp gọi một xứ rộng hơn của các
bộ tộc ít người sinh sống ở vùng núi Chứa Chan với tên gọi chung là Mọi Bà Rịa. Và sau cùng, được người Pháp đặt thành tên một tỉnh, kèm theo một truyền thuyết về Bà Nguyễn Thị Rịa.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Linh xác nhận rằng chính người Pháp đã sửa chữa sai lầm cho cuốn Địa chí Bà Rịa 1902. Nhà
khảo cổ học người Pháp, ông L.Malleret, Giám đốc Trường Viễn đông Bác
cổ Hà Nội đã đính chính cho sự “hớp tớp” của các đồng nghiệp của ông
trước đó rằng: “Địa danh Bà Rịa bắt nguồn từ tên gọi Khơme của một
cái bàu gần Long Điền là Bà Rày hay Bà Rey, chuyển sang âm Việt chệch
đi thành Bà Rịa. Cái Bàu đó sau đã mang một cái tên Việt ngữ là Bàu
Thành.“[15] Nguyễn
Linh cho rằng, ý kiến của L.Malleret đã giải quyết một cách xác đáng
hướng nghiên cứu về nguồn gốc địa danh Bà Rịa từ góc độ địa danh học.
Cùng một hướng nghiên cứu với Nguyễn Linh, Phó tiến sỹ sử học Đinh Văn Hạnh cho rằng: “Cách
giải thích địa danh hiện nay dùng để chỉ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu có nguồn
gốc sâu xa, bắt nguồn từ tên một "nước" Bà Lỵ (Bà Lịa) là có cơ sở hơn.
Tên nước này đã được thư tịch cổ của Trung Quốc đời Đường ghi lại, kèm
theo những sự kiện về sự hưng khởi của Chân Lạp - một sự kiện lịch sử có
thật. Chính sự ổn định tương đối của thực thể địa lý đó (chưa nói đến
sự tồn tại lịch sử của "nước Bà Lỵ") đã khiến cho những địa danh, tộc
danh, thuỷ danh liên quan đến từ "Bà Rịa" có sức sống trường kỳ.”[16]
Anh
cũng đưa ra một giả thuyết đáng đáng lưu ý: Bà Rịa vốn là tên đất (Bàu
Rày, Bà Rey), tên một vương quốc (Bà Lợi, Bà Lỵ, Bà Lịa), tên một tộc
người (Bà Rịa man) và rất có thể trùng tên với một người có công, xuất hiện sau này (là bà Nguyễn Thị Rịa).
Có
một điều đáng bàn thêm là dự kiến trùng tu ngôi mộ Bà Rịa nếu không
được cân nhắc và suy xét kỹ, sẽ khó tránh khỏi rơi vào tình trạng nông
nổi và bế tắc như các quan Tây mà ngày xửa ngày xưa, các già làng đã
từng chê trách. Chúng tôi hiểu rằng, những cố gắng của các cấp các ngành
trong việc tìm kiếm giải pháp và kinh phí trùng tu mộ bà Rịa cũng như
cố gắng của nhiều tác giả trong và ngoài địa phương nhằm khai thác những
giá trị truyền thống từ truyền thuyết là điều đáng qúy. Nhưng điều đó
chỉ trở nên quý khi nó khai thác được đúng giá trị, khơi được đúng mạch
nguồn. Đương nhiên là không thể khai thác những giá trị không tồn tại.
Trọng
các bậc tiền nhân có công khai phá, chúng ta có thể lập đền thờ Hộ phủ
Phạm Duy Trinh ngay tại Bờ Đập, nơi ông chỉ huy cuộc khơi dòng khẩn
hoang, thờ tất cả các bậc tiền nhân đã đến trước, đã cùng ông khẩn hoang
300 mẫu đất công cho làng (vào năm 1838). Nếu tín ngưỡng, chúng ta thờ
cả Hiên Ngọc hầu (Tổng binh Hồ Văn Hiên) đã cùng cha vào trấn ải, ứng
mộng phù hộ cho công cuộc khai khẩn.
Dù
không có đền đài thì lòng ngưỡng mộ vẫn tồn tại trong nhân dân về tất
cả những bậc tiền hiền có công đức từ buổi đầu khai phá. Song những đền
đài, lăng miếu chúng ta xây dựng lại hôm nay phải là những giá trị đích
thực của làng chứ không phải là tôn tạo những truyền thuyết xa rời thực
tế lịch sử mà các quan Tây chép lại.
Nguồn: Thông tin Khoa học Công nghệ Bà Rịa - Vũng Tàu số 4-1998
[1]
Lược ghi theo băng ghi âm và truyền thuyết Bà Rịa theo bút tích của cụ
Huỳnh Văn Bộ, sinh năm 1932 tại làng Hắt Lăng, xã Tam An.
[2] NXB Đồng Nai, 1988, tr 14, 15.
[3] Châu Thành đấu tranh và xây dựng, NXB Đồng Nai, 1988, tr 13-14.
[4] Monographic de la province de Ba Ria et de la Ville du Cap Saint - Jacques, Sai Gon, Imprimerie L.Ménard, 1902.
[5] Monographie de Bàrịa, Publ de la SEI. Sàigòn, 1902,tr 61.
[6] Tài liệu điền dã của tác giả.
[7] Theo Băng ghi âm và bản lược ghi tại Hội thảo ngày 7-10-1998 tại Tam An.
[8] Đại Nam Nhất Thống Chí (Quốc sử quán triều Nguyễn) Viện Sử học và NXB Thuận Hóa xuất bản 1992, Tập V, tr 60. (TG nhấn mạnh).
[9] Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, tập thượng, quyển I và II, Nha Văn hóa, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn 1972, tr 35-36.
[10] Đại Nam Nhất Thống Chí, Lục tỉnh Nam Việt, Tập thượng, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn 1959, tr 12.
[11] (SĐD, tr 30.
[12] Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Giáo sư Trần Văn Giàu chủ biên, NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1987,
[13] Tài liệu đã dẫn, bản tiếng Việt, tr 172.
[14] Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1987, tr 141.
[15]
Tham luận tại cuộc Hội thảo ngày 25-9-1998 về Nhân vật chí tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu do Ủy ban nhân dân tỉnh tổ chức, đồng chí Nguyễn Trọng Minh
chủ trì.
[16] Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 1930-1975, Chương mở đầu, bản thảo chưa xuất bản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét