6 thg 4, 2013

Ngày vui của người Khơ Mú

Khơ Mú là một trong những tộc người sinh sống lâu đời nhất ở vùng Tây Bắc. Do không có chữ viết nên tất cả những điệu múa, câu hát, những phong tục tập quán của người Khơ Mú truyền lại cho con cháu đều là truyền miệng. Tuy nhiên, người Khơ Mú lại được đánh giá là giữ được trọn vẹn nhất bản sắc dân tộc. 

Chiều ngày công tác thứ tư ở huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, anh Nguyễn Văn Quý - cán bộ văn phòng huyện nói với chúng tôi: “Sáng mai anh em mình vào bản người Khơ Mú nhé!. Anh để các em đợi vì phải vào đó đúng dịp ngày vui của họ thì mới thấy hết được đời sống tinh thần và văn hóa truyền thống của người Khơ Mú”. Vậy là dọc theo con đường lên Mù Cang Chải, cách trung tâm thị xã Nghĩa Lộ 6km, qua đồi Pú Lo, xã Loong Khoang 1, Loong Khoang 2, chúng tôi tới một quả đồi cao. Lấp ló đằng xa đã thấy những ngôi nhà sàn quây quần dưới thung lũng, được bao bọc bởi một màu xanh của thiên nhiên núi rừng. Đó chính là bản của người Khơ Mú, xã Nghĩa Sơn, huyện Văn Chấn.


Một ngày ở bản Hốc

Cảm nhận đầu tiên của du khách khi đến bản Hốc, xã Sơn Thịnh, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái, là một không gian bình yên với tiếng suối chảy róc rách, những ngôi nhà sàn mái lá cùng các thiếu nữ Thái má ửng hồng trong trang phục truyền thống đầy màu sắc. 

Tôi vào bản Hốc đúng vào ngày trời nắng đẹp. Cái nắng thu vàng rực nhưng không hề chói chang. Một không khí trong lành, một cảm giác bình yên đến khác lạ trên con đường đất dẫn vào bản. Bản Hốc hiện ra với những ngôi nhà sàn mái lá mộc mạc, thấp thoáng đâu đó là vài căn nhà màu sơn tươi mới như nét chấm phá tô điểm thêm cho mảng màu trầm. Dưới vườn nhãn xanh tốt, ruộng ngô mơn mởn đang độ xuân thì là tiếng cười đùa vui vẻ của các thiếu nữ Thái má ửng hồng trong trang phục truyền thống đầy màu sắc. Các thiếu nữ Thái tay cuốc, vai gùi… khiến tôi như bị mê hoặc, đắm say bởi vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên như chính mảnh đất này. 

Một góc bản Hốc, xã Sơn Thịnh, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.

Nghề làm đàn ở quận 4

Ở quận 4, Tp. Hồ Chí Minh, nghề làm đàn guitar (còn gọi là Tây Ban Cầm) đã hình thành, phát triển từ hơn nửa thế kỷ trước. Trải qua biết bao đổi thay của lịch sử, đến hôm nay, cái nghề độc đáo này vẫn đang tiếp tục tồn tại với những người thợ tâm huyết, như một giá trị văn hóa truyền thống giữa nhịp sống của một thành phố hiện đại bậc nhất Việt Nam. 

Trong cuốn “Những làng nghề thủ công truyền thống ở Tp. Hồ Chí Minh”, ông Trần Văn Sô được coi là người đã khai sinh ra làng nghề làm đàn truyền thống của Tp.HCM. Ông Sô sinh năm 1928 ở Nam Định, sau di cư vào Sài Gòn làm nghề mộc ở khu vực Tôn Đản, quận 4. Khoảng năm 1950, ông chuyển hẳn sang nghề chế tạo đàn guitar, đào tạo nhiều thợ làm đàn lành nghề nên trở thành làng nghề. Lúc đầu, các cố đạo, lính viễn chinh Pháp thường mang những cây đàn bị hỏng đến cho thợ người Việt có nghề mộc sửa chữa. Đàn guitar thời gian này còn hiếm, chỉ có thể đặt mua từ nước ngoài chuyển về nên phải chịu giá rất đắt. Người chơi đàn muốn có một cây để dùng mà không mua đàn được đã phải tự mày mò học, mua đàn cũ, hỏng, rồi tháo từng bộ phận để tìm hiểu cho rõ ngọn ngành. Từ đây, họ tự học hỏi lẫn nhau rồi biết sản xuất và sửa chữa đàn. 

Làm cần đàn là một trong những công đoạn phức tạp cần độ chính xác cao.

5 thg 4, 2013

Phố Tây ở Sài thành

Êm dịu, sôi động, sang trọng, bình dân, rất gần gũi và thân quen với bất cứ ai lần đầu tìm đến - là những biểu hiện đặc trưng nhất khi nói về khu vực đường Phạm Ngũ Lão, Đề Thám, Bùi Viện… thuộc phường Phạm Ngũ Lão, quận 1, Tp. Hồ Chí Minh - vốn từ lâu đã nổi tiếng với tên gọi “phố Tây”. 

Phố Tây lung linh trong ánh đèn màu rực rỡ, hàng quán tấp nập, mọi người đến với nhau không phân biệt quốc tịch, đẳng cấp, màu da, không khí cứ thế hòa quyện để tạo nên một điểm đến rất riêng nơi Sài thành hoa lệ. Nhịp sống ở đây chỉ thực sự bắt đầu vào lúc 5 giờ chiều, lý do chính là vì Việt Nam ngược múi giờ với hầu hết các nước phương Tây. Hơn nữa, vô hình chung tạo điều kiện cho các du khách Tây vui chơi thoải mái nhất trong không khí của Sài Gòn về đêm. Du khách đến Sài Gòn thường truyền nhau câu cửa miệng: “Sài Gòn sống về đêm!”. Đến phố Tây vào thời điểm đặc biệt này, chúng tôi cảm nhận rõ cái thời khắc dần chuyển giao giữa ngày và đêm cũng như nhịp sống của phố Tây. Từng tốp du khách Tây, áo pull, quần lửng, mang giày thể thao đi dạo trên các con đường Bùi Viện, Đề Thám… - là những dãy phố hẹp dài tít tắp - thoải mái ngắm các hàng quán dày đặc với đủ các mặt hàng từ vải lụa, đồ lưu niệm Việt Nam, giày dép cho đến tranh ảnh, ba lô, mũ nón… Những hình ảnh đó cùng với sự chật hẹp của các con đường thuộc phố Tây, đôi khi đông đúc quá còn phải chen nhau, dường như đã làm nên sự quyến rũ kỳ lạ đối với du khách.


Nhã Viên quán

Ở tỉnh Đồng Nai, có một khuôn viên rộng chừng 5.000 mét vuông nhưng là nơi hội tụ đầy đủ nét văn hóa đặc trưng của các vùng miền, từ phong cách nghệ thuật kiến trúc độc đáo đến những cảnh vật thiên nhiên thơ mộng, hữu tình nơi thôn dã... Đó là Nhã Viên quán, còn được ví như một công viên văn hóa, một bảo tàng văn hóa hay một resort thu nhỏ, tọa lạc ở khu phố 1, phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa.

Khuôn viên Nhã Viên quán được mở ra với chiếc cổng dựng theo kiểu Tam Quan cổ điển của xứ Huế, thực sự tương thích với ngôi nhà rường lớn, giữ vị thế kiến trúc chủ trong tổng thể Nhã Viên. Ngôi nhà có tên là Phú Xuân Đường với ý nghĩa không chỉ gửi gắm những ước vọng sinh sôi, nảy lộc của mùa xuân và sự thịnh vượng mà còn vì phong cách kiến trúc nhà rường đặc trưng xứ Huế, gợi nhớ về vùng đất cố đô văn vật. 

Nam Huyên Đường, ngôi nhà có kiến trúc mang phong cách Nam Bộ. 

4 thg 4, 2013

Văn hóa trầu cau

Trong đời sống tinh thần của người Việt, ăn trầu không đơn thuần là một thói quen, tập tục, mà còn là yếu tố cấu thành những giá trị văn hóa truyền thống. Trầu cau như đồ sính lễ nhất thiết không thể thiếu trong cưới hỏi, lấy vợ lấy chồng, giao tiếp, ứng xử. 

Nếp cũ ngàn xưa

Ở Việt Nam, tương truyền, tục ăn trầu cau (tục ăn trầu) có từ thời Hùng Vương, gắn liền với truyền thuyết về “Sự tích trầu cau”, kể về tình cảm vợ chồng thủy chung, anh em gắn bó vượt non, vượt suối tìm nhau và cùng hóa thành cây cau, dây trầu, tảng đá quấn quýt bên nhau. Trầu cau là đầu trò của giao tiếp, ứng xử, là sự khởi đầu, khơi mở tình cảm, giúp người với người trở nên gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Trầu cau là lễ vật khởi đầu trong các nghi lễ truyền thống quan trọng như cưới hỏi, tế tự, tang ma, táng tục... Trầu cau là biểu tượng của tình yêu đôi lứa và tình nghĩa vợ chồng, anh em, gia đình, hạnh phúc.

Tục ăn trầu phổ biến ở mọi tầng lớp, từ dân gian tới cung đình, trở thành nét đẹp văn hóa truyền thống. Không chỉ với người Kinh, nhiều dân tộc ít người khác như Tày, Nùng, Dao, Thái, Mường, Sán Dìu... từ vùng núi phía Bắc đến các dân tộc sinh sống dọc theo dãy Trường Sơn, Tây Nguyên như Khơ Me, Bru, Ê đê và người Chăm ở Nam Trung Bộ đều có tục ăn trầu. Ở mỗi dân tộc, tục ăn trầu có những nét tương đồng nhưng do môi trường sống và không gian văn hóa khác nhau mà có nét độc đáo riêng biệt. Người Mường, người Thái, người Ê đê dùng trầu đãi khách, người Tày, Nùng dùng trầu trong lễ “Buộc chỉ cổ tay cho cô dâu chú rể”.


Về Nhơn Hải xem hội cầu ngư

Cũng như nhiều vùng biển khác, ngư dân ở xã Nhơn Hải (TP Quy Nhơn, Bình Định) tin vào sự linh thiêng của cá Ông và coi đây là vị thần giúp họ vượt qua những hiểm nguy trên biển. 

Vì thế, lễ hội cầu ngư ở lăng Ông Nam Hải (ngày 11 và 12-2 âm lịch hằng năm) gồm các nghi lễ chính như: lễ nghinh thần nhập điện; lễ tế xuân, tế thần, cầu quốc thái dân an, biển được mùa tôm cá; lễ ra quân đánh bắt hải sản…

Điểm nhấn trong lễ hội là chương trình chèo bả trạo và múa gươm hầu thần với bộ gươm gồm 32 chiếc. Đoàn múa gươm hầu vừa là những người bảo vệ và hộ tống, vừa là những người biểu diễn nghệ thuật cho Ông xem với nhiều động tác phong phú.

Chèo bả trạo là một loại hình diễn xướng nghệ thuật nhằm biểu dương công đức, tỏ lòng thương tiếc của ngư dân đối với cá Ông, đồng thời thể hiện nghị lực, ý chí của ngư dân trước cuộc sống đầy thách thức giữa biển cả và ước vọng về một cuộc sống an lành, no đủ. 


Rước Ông Nam Hải về lăng lúc 16g

Thơm ngon ốc đá

Ốc đá, cái tên nghe bình dị, thân thương nhưng gợi nhớ về những vùng quê thanh bình, thơ mộng, nơi có những khe suối nước trong vắt, róc rách chảy đêm ngày. 

Ốc đá được rửa sạch, chặt bỏ trôn ốc trước khi chế biến thành nhiều món ăn ngon, lạ miệng - Ảnh: K.Loan

Ốc đá sinh sống ở các khe, suối, nơi có dòng nước trong xanh, không bị ô nhiễm và có nhiều đá. Muốn bắt được ốc đá phải hiểu tập tính sinh sống và phải biết được nơi cư ngụ của ốc. 

Ban ngày ốc chui xuống phía dưới các tảng đá, dưới cát hay dưới các lớp lá cây bị mắc lại tại các hốc đá. Ban đêm ốc bò ra, bám thành từng bầy trên những phiến đá, đen tuyền, hiện rõ dưới dòng nước chảy hiền hòa, trong vắt của các con suối, khe nước.

Ốc đá vỏ cứng, màu đen, vị ngọt, béo, thơm nên rất được mọi người ưa chuộng bắt về nhà, chế biến thành nhiều món ăn ngon dân dã.

Ốc bắt về được ngâm với nước vo gạo khoảng sáu giờ để nhả hết chất bẩn. Chà rửa ốc thật sạch, chặt bỏ trôn (đuôi) ốc, rửa ốc một lần nữa, vớt ra rổ để ráo rồi chế biến thành nhiều món ăn thú vị.

Ốc đá um sả là món ăn ngon được nhiều người ưa thích. Ốc làm sạch, ướp muối, hạt nêm, nước mắm, mì chính, hành, tiêu, tỏi, ớt, sả băm hai mươi phút cho thấm gia vị. Phi thơm dầu phộng rồi cho ốc vào đảo đều, thêm vài củ sả đập giập rồi đậy vung lại. Để lửa nhỏ cho ốc chín từ từ.

Không cần thêm nước vì ốc sẽ tự tiết ra nước trong quá trình um. Khoảng ba mươi phút sau, bạn có được đĩa ốc um sả thơm ngon, tỏa khói nghi ngút để hút cùng bạn bè. Riêng phần nước um ốc có vị rất ngọt và béo, dùng bánh tráng nướng chấm nước này ăn ngon và lạ miệng vô cùng.

Với món cháo ốc đá, bạn vừa có ốc để hút vừa có cháo ăn no bụng. Ốc đá làm sạch, ướp muối, hạt nêm, mì chính, dầu phộng, hành, tiêu, tỏi cho thấm. Gạo vo sạch, thêm nước, nấu chín rồi đổ ốc vào. Nấu đến khi hạt gạo chín nhuyễn, ốc chín tiết vị ngọt ra nồi cháo, nêm lại gia vị cho vừa ăn rồi tắt bếp.

Múc cháo ra tô, thêm một ít tiêu bột, hành lá xắt nhỏ và lá chanh non thái chỉ lên trên tô cháo. Cháo ốc đá ăn nóng mới cảm nhận được hết hương vị thơm ngon, béo, ngọt của thịt ốc và của món cháo dân dã này. Hương thơm thoang thoảng và tinh dầu của lá chanh non giúp món ăn thêm dậy mùi, ăn một lần rồi nhớ mãi.

Trong bữa cơm gia đình, ốc đá còn được dùng nấu canh với rau rừng. Nguyên liệu chỉ là một ít ốc đá um chín cho vào nấu canh cùng rau rừng như rau sấn, rau dớn hay hoa chuối rừng. Món canh dân dã, thanh mát, ngọt ngào giúp xua tan nắng nóng ngoài trời, mang lại cho người ăn cảm giác thú vị, thư thái và dễ chịu.

K.LOAN

--- Tổng hợp các thông tin về văn hóa và du lịch Việt Nam tại www.amazingvietnam.vn ---

Món ngon cá cơm mồm

Những ngày đầu tiên khăn gói về làm dâu xứ biển, tôi rất khâm phục tài nấu nướng của mẹ chồng. Món nào mẹ nấu cũng ngon, có mùi vị rất lạ, đặc biệt các món ăn từ cá biển và cá cơm mồm.

Những con cá cơm mồm còn tươi rói - Ảnh: T.Ly

Nhớ lần đầu tận mắt chứng kiến mẹ nấu canh cá cơm mồm - loại cá cơm lạ tôi chưa bao giờ được biết đến - với dưa hường tôi không khỏi ồ lên ngạc nhiên. Giở nắp nồi, khói bốc lên nghi ngút, bên những lát dưa hường xanh mơn mởn, những chú cá cơm mồm nhỏ trăng trắng, xinh xinh như đang ngụp lặn trong sóng sánh nước sôi trông rất vui mắt. Mùi thơm thoảng thoảng, nhẹ nhàng lan tỏa cả căn bếp nhỏ càng kích thích thêm khẩu vị. 


3 thg 4, 2013

Trao trảo chiên giòn

Trao trảo là một loài chim thuộc họ chào mào, còn có tên hoành hoạch (hay quành quạch). Trao trảo biết hót, nhưng tiếng hót không mấy thanh tao, sang trọng, đài các như các “nàng” sơn ca, hoàng oanh, họa mi... nên chúng chẳng mấy khi được người chơi chim cho ở trong “lầu son gác tía”, thi đấu tưng bừng như các nàng ca sĩ có “sao” vừa nêu.

Trao trảo chiên giòn. Ảnh: Phương Kiều 

Trao trảo là loài chim được người ta liệt vào loài “phá họai vườn cây ăn trái”, vì chúng rất thích ăn những trái chín treo lủng lẳng trên các cành cây đang trĩu quả, tỏa mùi thơm quyến rũ, như xoài, nhãn, sa-pô-chê, thanh long... Đặc biệt trao trảo rất thích ăn những trái lá cách chín tím bầm. Dù vậy, để săn bắt chúng, người ta không giăng lưới, móc câu hay một phương cách nào khác, ngoài việc dùng cái giọng hót đặc trưng của con trao trảo mồi để quyến dụ chúng. Nếu trúng, một bữa người ta có cả chục con trao trảo mê nghe “ca hát” mà sa vào chốn hiểm nguy.