20 thg 11, 2019

Ngôi trường nữ sinh đầu tiên ở miền Trung

Cách đây hơn 100 năm, trường Đồng Khánh (Trường THPT Hai Bà Trưng ngày nay) ở TP. Huế là ngôi trường đầu tiên và duy nhất dành cho nữ sinh 13 tỉnh miền Trung. Đây còn là một trong số ít những ngôi trường trong cả nước giữ được nét cổ kính và duyên dáng theo lối kiến trúc Pháp. 

Vào đầu thế kỷ XX rất ít phụ nữ Việt Nam có điều kiện đi học. Hầu hết các trường học nổi tiếng ba miền Bắc, Trung, Nam chỉ giành cho nam sinh. Đơn cử là Trường Quốc Học - Huế, thành lập năm 1896; miền Nam có trường Trung học Chasseloup-Laubat, thành lập năm 1874; miền Bắc có trường Trung học Bảo hộ (Collège du Protectorat), thành lập năm 1908.

Năm 1917, Vua Khải Định đặt viên đá đầu tiên xây dựng trường nữ Trung học Đồng Khánh. Kiến trúc của ngôi trường vừa mang nét tinh tế, cầu kỳ của kiến trúc Pháp, vừa toát lên vẻ cổ kính, trang nghiêm. Từng dãy phòng học được thiết kế ấn tượng bởi những mái vòm duyên dáng. Sắc hồng thắm của các dãy hành lang tuyệt đẹp gợi cảm xúc thương nhớ cho bất cứ ai nếu từng một lần đặt chân ghé thăm ngôi trường này.

Năm 1917, Vua Khải Định đặt viên đá đầu tiên để xây dựng trường.

Giữ hương vị bánh ít quê

Ở thôn Quang Mỹ, xã Tịnh Hòa (TP.Quảng Ngãi) hiện có gần 20 hộ dân trồng cây lá gai và làm bánh ít từ loại cây này. Mấy chục năm qua, hương vị bánh ít lá gai đã tạo nên thương hiệu đặc trưng của vùng quê này.

Gia đình bà Đỗ Thị Đi, ở khu dân cư Quang Minh, thôn Quang Mỹ, nổi tiếng làm bánh ít lá gai, với hơn 60 năm gắn bó với nghề. Hiện nay, hai người con trai của bà Đi nối nghiệp gia đình làm bánh ít. Anh Nguyễn Duy Ly, con trai bà Đi, chia sẻ: Tôi gắn bó với công việc làm bánh từ nhỏ và trở nên đam mê. Vì thế, khi cha mất, mẹ thì sức khỏe yếu, nên tôi thay bà gìn giữ nghề của gia đình. Tính đến nay, tôi đã nối nghiệp được hơn 20 năm".

Những chiếc bánh ít ở cơ sở sản xuất của anh Nguyễn Duy Ly, thôn Quang Mỹ, xã Tịnh Hòa (TP.Quảng Ngãi) được nhiều người ưa chuộng. 

Đá ong trong ký ức

Đá ong là loại đá mà nay nhiều người đã quên lãng, thậm chí không hề biết đến. Nhưng thuở xưa đó là loại đá quen thuộc, thân thiết với đời sống con người.

Có lần tôi đến làng cổ Đường Lâm ở đồng bằng Bắc Bộ, thật đáng ngạc nhiên là làng cổ gắn với kiến trúc đá ong. Ở Hà Nội thời mở cửa không thiếu gì những vật liệu hiện đại, nhưng có quán xài toàn đá ong. Đi đâu rồi cũng nhớ về Quảng Ngãi, tôi lại nhớ cái đá ong quê mình.

Ở quê tôi, có một cái núi nhỏ người dân quen gọi núi Đồi. Dọc đường xe lửa, sau năm 1975, người ta chặt đá ong khắp nơi. Thời ấy sau chiến tranh, gạch nung hạn chế, xi măng quá thiếu thốn, người ta làm vách tường nhà chủ yếu bằng đá ong.

Đá ong dựng vách nhà, xi-măng chỉ dùng hạn chế làm “mạch hồ” kết dính những viên đá với nhau, còn thì “da đá” cứ bày ra lỗ chỗ như tổ ong. Dựng thành giếng từ trên xuống đáy giếng với hình cong tròn cũng bằng đá ong, không cần mạch hồ vì tự thân các phiến đá ganh tròn với nhau là đủ. 

Một ngôi nhà đá ong còn sót lại. 

Lên non ăn... lá sưng

Tưởng chừng chỉ là một loại cây gai tua tủa mọc dại ở bụi bờ, vậy mà cây lá sưng lại được người đồng bào miền núi xứ Quảng ưu ái dùng làm gia vị cho rất nhiều món ăn. Lá sưng xào thịt trâu, thịt bò; lá sưng nấu canh với củ mì, cá tràu... đều là những món ăn có hương vị thơm ngon, khó cưỡng nơi rẻo cao.

Người Hrê ở Quảng Ngãi gọi lá sưng là lá poot. Đây là loại cây mọc hoang dại khắp bìa rừng, góc núi, nên rất dễ kiếm tìm. Nói đến những món ăn của người Hrê gắn với lá sưng, có lẽ phải nhắc ngay đến món thịt trâu, thịt bò nấu lá sưng.

Nếu như người đồng bằng thường xào thịt bò, thịt trâu với lá lốt, hành tây hoặc rau cần, thì người Hrê lại hay dùng lá sưng để xào, nấu canh cùng các loại thịt này. 

Đọt lá sưng được người miền núi Quảng Ngãi dùng để xào với thịt bò, tạo nên món ăn có hương vị rất đặc biệt. 

16 thg 11, 2019

Chợ chiều Tổng Bâng- Một thời vang bóng

Dẫu cuộc sống nhiều đổi thay, nhưng với nhiều người chợ chiều Tổng Bâng, ở thôn Hiệp Phổ Trung, xã Hành Trung (Nghĩa Hành) vẫn còn mãi trong ký ức, như thể một phần lịch sử, văn hoá của làng. 

Nơi giao thương tấp nập


Theo các bậc cao niên, chợ Tổng Bâng nằm trên tuyến đường đi qua nhiều xã ở huyện Nghĩa Hành, nên một thời giao thương tấp nập.

Ông Nguyễn Khắc Lực (66 tuổi) ở thôn Hiệp Phổ Trung, xã Hành Trung cho biết: Ông Nguyễn Khắc Bâng (sinh năm 1775), người dân làng còn gọi là ông Tổng Bâng, là con của ông Cả Trí, người giàu nhất làng. Ông Nguyễn Khắc Bâng làm quan trong triều đại nhà Nguyễn.


Khuôn viên chợ chiều Tổng Bâng ngày ấy, nay là Trường Tiểu học Hành Trung. 

Múa nghi lễ của dân tộc Chăm

Dân tộc Chăm chẳng những đã sáng tạo nên nhiều kiệt tác điêu khắc và kiến trúc đền tháp còn lưu lại trên dải đất miền Trung mà còn bảo lưu nhiều di sản văn hóa phi vật thể quý báu như lễ hội, nghệ thuật diễn xướng gian, trò chơi, trang phục, ẩm thực, nghề thủ công truyền thống, tri thức bản địa... Trong kho tàng nghệ thuật diễn xướng dân gian dân tộc Chăm, các điệu múa nghi lễ mang nhiều giá trị đặc sắc, trở thành nét độc đáo nhất trong các lễ hội truyền thống dân tộc. 

Những điệu múa mang đậm văn hóa Chăm


Những loại hình nghệ thuật như hát khấn, tụng ca các vị thần linh, múa nghi lễ, nhạc lễ thường được diễn ra tại các đền tháp trong các lễ hội lớn của cộng đồng. Những vũ điệu dân gian luôn mang đậm hương vị Chăm như: Vũ điệu dâng lễ, múa đội nước, múa Apsara, múa cắn lửa, đi cùng với âm điệu của tiếng kèn saranai, trống ghi năng và paranưng… 

Múa dâng lễ trong Ngày hội văn hóa dân tộc năm 2019 tại Phú Yên. 

Người Xá Phó “rước hồn mẹ lúa”

Khi những bông lúa trên nương bắt đầu chín, đồng bào Xá Phó (Lào Cai) xem lịch, chọn ngày tốt để chuẩn bị nghi thức tổ chức ăn cơm mới. Tết cơm mới của người Xá Phó có lịch sử hơn 300 năm, đến nay vẫn được bà con đồng bào Xá Phó duy trì và bảo tồn, trở thành nét văn hóa độc đáo trong cuộc sống thường nhật của họ. Để năm sau mùa màng tươi tốt, người Xá Phó thường tổ chức Tết cơm mới từ tháng Tám âm lịch. 

Trong tín ngưỡng Tết cơm mới, độc đáo nhất vẫn là nghi lễ giữ hồn lúa mẹ ở nương và nghi lễ rước hồn lúa mẹ về kho thóc hoặc sàn nhà. Ngày đầu tiên đi gặt, chỉ có hai vợ chồng chủ nhà, dậy sớm chuẩn bị cơm gói và chiếc hái, gùi qua đầu và đặc biệt là hòn đá thần (loại đá trắng có nhiều hạt hình ngũ giác tạo thành - trông giống hạt gạo). Ngày đi hái lúa đầu tiên giống như đi đón hồn lúa về nhà nên mọi việc phải được kiêng kỵ thì hồn lúa mới về đến nhà, nên gia chủ phải đi một mạch đến nương, không đi đường tắt, trên đường đi không được hỏi chuyện hay trả lời người khác. 

Người Xá Phó thu hoạch lúa để tổ chức Tết cơm mới. 

Ấn tượng thác Hang Dơi

Chư Mom Ray có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, đặc biệt là các thác nước hùng vĩ và thơ mộng trong rừng nguyên sinh. Sau các chuyến đi khám phá thác Bảy Tầng, thác Khỉ, thác Nàng Tiên, lần này, tôi quyết định đến thác Hang Dơi nằm sâu trong Vườn Quốc gia Chư Mom Ray. 

Tranh thủ thời điểm giao mùa, thời tiết không quá ẩm ướt và các suối nước chưa cạn kiệt, tôi quyết định lên đường khám phá thác nước Hang Dơi trong Vườn Quốc gia Chư Mom Ray. Chuyến đi của tôi được Ban Giám đốc Vườn Quốc gia Chư Mom Ray tạo điều kiện, cử cán bộ và mời các hộ nhận khoán bảo vệ vườn theo cùng để vừa đi tuần tra, vừa giới thiệu thác nước.

Đợi mặt trời lên, nắng ấm, gần 9h sáng, tôi có mặt tại Trạm Quản lý bảo vệ rừng của Vườn Quốc gia Chư Mom Ray tại xã Sa Nhơn, huyện Sa Thầy như đã hẹn. Lúc này, cán bộ, nhân viên và các hộ nhận khoán thôn Nhơn Bình trong chuyến đi có mặt đông đủ tại Trạm. Từ Trạm, chúng tôi đi xe gắn máy theo hướng xã Rờ Kơi và rẽ vào đường mòn men theo nương rẫy cao su, cà phê... của dân ở vùng đệm. Gửi xe tại nương rẫy cà phê, chúng tôi đi trên lối mòn nhỏ vào rừng.

Về xứ Vàm Tấn nhớ con cá cháy

Chạy xe gần 20 cây số từ trung tâm tỉnh lỵ về thị trấn Đại Ngãi (Long Phú), tìm đến cửa sông lớn ngay tại đầu vàm Đại Ngãi (Vàm Tấn xưa) trong cơn gió lộng rung nhánh bần rụng bông tím ngắt mặt sông mà lòng thấy mênh mang giữa bốn bề trời nước bao la để nhớ về một “quân cảng”, một trong những khu kinh tế sầm uất của tỉnh Sóc Trăng một thời và nhớ về nơi trú ngụ của một loài cá ngon nổi tiếng là “kỳ trân, thủy vật”, mà chỉ xứ này mới có nay đã không còn thấy - con cá cháy.

Theo Địa chí tỉnh Sóc Trăng, Vàm Tấn là tên gọi đầu tiên của làng Đại Ngãi xưa kia. Về nguồn gốc xuất hiện địa danh Vàm Tấn, có nhiều nguồn giải thích khá phức tạp. Theo truyền thuyết, vào khoảng trước những năm 1850, nơi đây được triều đình cho đặt một trạm quân cảng và trấn giữ về quân sự nhằm chống lại mọi sự xâm nhập của quân Xiêm cùng với đám hải tặc thường xuyên quậy phá, vừa làm nơi thu thuế của các tàu buôn nước ngoài đi vào địa phận. Thời đó, các tàu buôn từ các nước lân cận thường xuyên đến đây mua bán và trao đổi các sản vật của địa phương như bông vải, lúa gạo, cá khô, lông chim… và đều phải cập bến vào quân cảng để làm thủ tục khám xét, sau đó mới được phép đi sâu vào nội địa. Những tàu buôn nào có hành vi mờ ám, bị nghi ngờ là hải tặc đều bị xử phạt bằng hình thức tra tấn bằng roi. Từ việc thực hiện hình phạt này đã gây ra sự bất bình trong giới thương nhân nên họ gọi nơi đây là Vàm Tấn.

Địa điểm Chắc Tức – Bàu Còn

Chắc Tức – Bàu Còn, theo lời kể của các vị bô lão địa phương thì trước đây nơi này là một khu đầm lầy, bưng bàu hoang dã, có nhiều cỏ dại, lau, sậy và cây dừa nước mọc xen nhau, chưa có con người đến đây khai phá và sinh sống.

Sau khi phong trào Bình Tây của Trương Công Định bị thất thủ, nhiều người dân yêu nước không chịu khuất phục nên bỏ xứ ra đi và đến nơi đây cư trú nhằm lánh nạn, đồng thời tìm cách chống lại thực dân Pháp và bọn quan lại phong kiến, họ khai khẩn đất hoang để sinh sống. Và địa danh “Chắc Tức” xuất phát từ tên gọi của người Khmer địa phương có ý nghĩa là “nước đổ”, con rạch Chắc Tức bắt nguồn từ rừng tràm Mỹ Phước đổ ra rạch Bàu Còn, là một trong hàng trăm con rạch lớn, nhỏ do thực dân Pháp bắt nông dân đào và là những con rạch chính để điều hòa, cấp nước cho khu rừng tràm. Rạch Bàu Còn có chiều dài 9km bắt nguồn từ hướng Tây ngã tư chợ Khu trù mật Cái Trầu đổ ra hướng Đông sông Quản lộ đi Nhu Gia. Thực dân Pháp cho xây dựng tại vàm Chắc Tức – Bàu Còn một cứ điểm nhằm kiểm soát giao thông thủy, bộ và ngăn cắt liên lạc của quân cách mạng ở Tây Nam, đồng thời làm bàn đạp thực hiện âm mưu đánh chiếm vùng giải phóng giành lấy nguồn nhân lực, vật lực tại chỗ để phục vụ lâu dài cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.